Đọc hiểu văn bản:
Đi đường (Tẩu lộ)
(Hồ Chí Minh)
I. Đọc – hiểu chú thích.
1. Tác giả:
– Hồ Chí Minh (1890- 1969), quê tỉnh Nghệ An, là một nhà cách mạng lỗi lạc, nhà lãnh đạo tài ba, nhà ngoại giao kiệt xuất, nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới.
– Bác sáng tác bằng nhiều thể loại nhưng nổi bậc hơn cả là thơ ca. Thơ Bác hay viết về thiên nhiên đất nước với tình yêu tha thiết, niềm tự hào, lời thơ nhẹ nhàng bay bổng lãng mạn.
2. Tác phẩm:
– Hoàn cảnh sáng tác. Đi đường là bài thơ số 20 trong tập thơ Nhật kí trong tù của Bác, sáng tác nhằm ghi lại những lần Bác di chuyển giữa các nhà lao ở Quảng Tây
– Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật
– Nội dung: Đi đường là bài thơ tứ tuyệt giản dị mà hàm súc, mang ý nghĩa tư tưởng sâu sắc; từ việc đi đường núi đã gợi ra chân lí đường đời: vượt qua gian lao chồng chất sẽ tới thắng lợi vẻ vang.
II. Đọc – hiểu văn bản.
1. Nỗi vất vả, gian nan của việc đi đường của người tù:
– “Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan” (Có đi đường mới biết đường khó đi): Đây không phải sự miêu tả con đường đơn thuần mà nhằm gợi lên những suy ngẫm sâu sắc.
– Điệp từ “tẩu lộ” nhấn mạnh việc đi đường rất gian khổ, chỉ có người từng trải mới cảm nhận được hết sự vất vả đó.
⇒ Đó chính là ẩn dụ chỉ con đường Cách mạng, con đường đầy gian nan thử thách.
– “Trùng san chi ngoại hựu trùng san” (Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác): khắc họa rõ nét những khó khăn gian khổ, những chông gai mà người tù phải trải qua “trùng san chi ngoại hựu trùng san”.
⇒ Điệp từ “trùng san” cộng thêm từ “hựu” càng làm tăng thêm sự gian truân, khó nhọc, hiện lên trước mắt người đọc những ngọn núi cao trọc trời.
2. Kết quả dành cho những ai biết vượt qua gian khó.
– “Trùng san đăng đáo cao phong hậu” (Khi đã vượt các lớp núi lên đến đỉnh cao chót):: Diễn tả hoàn cảnh vượt mọi hoàn cảnh khó khăn gian khổ để “lên đến tận cùng”: Mọi gian khổ rồi sẽ kết thúc,mọi khó khăn sẽ lùi về sau
– Thấy rõ tứ thơ cổ điển “đăng cao” cùng phong hái ung dung chiếm lĩnh cảnh vật, hòa mình vào vũ trụ bao la, rộng lớn
– Con người như sánh ngang với thiên nhiên vũ trụ, ung dung giữa trời đất, ta không thấy ở đó bóng dáng của một người tù đang bị giam cầm trong thực tại mà chỉ thấy một tâm hồn tự do chiếm lĩnh
⇒ Có trải qua gian khổ thì mới tới đích, càng gian khổ thì càng gần tới đích hơn.
– “Vạn lí dư đồ cố miện gian” (Thì muôn dặm nước non thu cả vào tầm mắt): Lúc này người đi đường như một du khách ung dung say sưa ngắm nhìn lại khung cảnh thiên nhiên bao la, ngắm ngại những gì mình đã trai qua => Con người làm chủ thiên nhiên, đất trời
⇒ Từ việc đi đường, bài thê mang đến một chân lí đường đời đó là vượt qua được gian lao sẽ đi được tới thành công
III. Tổng kết:
1. Nội dung:
– Bài thơ khắc họa chân thực những gian khổ mà người tù gặp phải, đồng thời thể hiện thể hiện chân dung tinh thần người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh, nói lên ý nghĩa triết lí cao cả: từ việc đi đường núi mà hiểu được đường đời: Vượt qua gian lao thử thách sẽ đi được tới thắng lợi vẻ vang
2. Nghệ thuật
– Sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật
– Kết cấu chặt chẽ
– Giọng điệu thơ biến đổi linh hoạt
– Hình ảnh sinh động, giàu ý nghĩa.
Trả lời câu hỏi SGK.
Câu 1. Đọc kĩ các phần phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, các chú thích để hiểu rõ nghĩa của các câu thơ (HS tự đọc theo hướng dẫn)
Câu 2: Tìm hiểu kết cấu bài thơ (Gợi ý: dựa vào mô hình kết cấu bài tứ tuyệt Đường luật – khai, thừa, chuyển, hợp – đã được biết ở lớp dưới; chú ý mối liên hệ lô-gisc giữa các câu thơ và vị trí của câu thơ thứ ba.)
Trả lời:
Bài thơ này thể hiện rất rõ kết cấu của thể thơ tứ tuyệt Đường luật, bám theo trình tự kết cấu này sẽ nắm được mạch triển khai tứ thơ:
– Câu đầu – câu khai (khởi), mở ra ý thơ : nói đến sự gian lao như là điều hiển nhiên của người đi đường, ý thơ thấm thía từ sự trải nghiệm của người đang trên hành trình gian nan (Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan).
– Câu tiếp – câu thừa có vai trò mở rộng, triển khai, cụ thể hoá ý đã được mở ra ở câu khai : khó khăn, gian nan của người đi đường được cụ thể bằng hình ảnh lớp lớp núi non hiểm trở trên hành trình mà người đi phải vượt qua (Trùng san chi ngoại hựu trùng san).
– Câu 3 – câu chuyển, chuyển ý, câu này rất quan trọng trong việc bộc lộ tứ thơ. Hàm ý của bài tứ tuyệt bộc lộ bất ngờ ở câu này : Khi đã vượt các lớp núi lên đến đỉnh cao chót vót (Trùng san đăng đáo cao phong hậu).
– Câu 4 – câu hợp, quan hệ chặt chẽ với câu chuyển thành một cặp câu thể hiện rõ ý chuyển và thâu tóm lại ý tứ của toàn bài : Thì muôn dặm nước non thu cả vào trong tầm mắt (Vạn lí dư đồ cố miện gian).
⇒ Tình cảm, cảm xúc, các hình tượng nghệ thuật của bài thơ vận động theo kết cấu này. Như thế, cấu thứ ba như là một cái bản lề tạo ra bước ngoặt về ý cho cả bài thơ.
Câu 3 (trang 40 SGK): Việc sử dụng các điệp ngữ trong bài thơ (cả ở bản chữ Hán và bản dịch thơ) có hiệu quả nghệ thuật như thế nào?
Trả lời:
Việc sử dụng liên tiếp các điệp từ (tẩu lộ, trùng san) trong cả bản chữ Hán và bản dịch thơ có hiệu quả rất lớn trong việc tạo nên hiệu quả nghệ thuật cho bài thơ. Việc lặp lại hai chữ tẩu lộ đã làm nổi bật ý thơ đường đi thật khó khăn gian khổ. Việc lặp lại các chữ trùng san, hựu trùng san cũng vậy. Các chữ này tiếp tục nhấn mạnh cái khó khăn đang nối tiếp, chồng chất khó khăn như tạo ra một cái nền vững chắc để khẳng định cái sức mạnh của tinh thần ở phía sau.
Câu 4 (trang 40 SGK): Phân tích câu 2 và câu 4 để làm rõ nỗi gian lao của người đi đường núi và niềm vui sướng của người đứng trên cao ngắm cảnh. Hai câu thơ này, ngoài ý nghĩa miêu tả, còn ngụ ý gì nữa không?
Trả lời:
– Câu thơ thứ hai:
Trùng san chi ngoại hựu trùng san.
(Núi cao rồi lại núi cao trập trùng).
⇒ Khắc hoạ cái khó khăn chồng chất của người đi đường (vừa đi hết lớp núi này lại gặp ngay lớp núi khác). Các dãy núi nối tiếp cứ như bất tận, triền miên. Nhân vật trữ tình như đang cảm nhận một cách rõ ràng hơn cái khó khăn của đường đi nói chung và của con đường cách mạng nói riêng, để từ đó suy ngẫm về tinh thần của người chiến sĩ trước gian nan.
– Đến câu thơ cuối: Vạn lí dư đồ cố miện gian (Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non): Con người từ tư thế bị đày đoạ tưởng như không thể nào vượt qua nổi bỗng trở thành một du khách ung dung say ngắm cảnh non sông. Câu thơ cuối diễn tả niềm hạnh phúc bất ngờ nhưng xứng đáng đến với con người đã kì công trèo qua bao dãy núi vô cùng gian khổ.
– Ngoài nghĩa miêu tả, câu thơ thứ hai và câu thơ cuối còn mang nghĩa khác. Những con đường núi gian nan hiểm trở kia gợi ra hình ảnh con đường cách mạng đầy gian nan thử thách, đầy những hi sinh. Và niềm vui ở câu thơ cuối đâu chỉ là niềm vui của con người đã vượt qua bao dãy núi. Nó còn là niềm vui, niềm hạnh phúc của người chiến sĩ cách mạng khi cách mạng thành công sau bao gian khó, hi sinh.
Câu 5 (trang 40 SGK): Theo em, đây có phải là bài thơ tả cảnh, kể chuyện không? Vì sao? Hãy nêu vắn tắt nội dung ý nghĩa bài thơ.
Trả lời:
Bài thơ không thuộc loại tả cảnh hay tự sự (kể chuyện). Bài thơ thiên về triết lí (triết lí ẩn dưới cái vỏ miêu tả và tự sự). Đi đường, vì thế có hai lớp nghĩa: nghĩa đen miêu tả, kể lại những gian khó của việc đi đường núi, nghĩa bóng ngụ ý về con đường cách mạng, về đường đời. Qua bài thơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn nêu ra một chân lí: con đường cách mạng là lâu dài và gian khổ, nhưng nếu kiên trì và bền bỉ, thì nhất định sẽ đạt tới thành công.
Tham khảo:
Cảm nhận nội dung ý nghĩa bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh
Tháng 8 năm 1942, Nguyễn Ái Quốc vượt biên giới sang Trung Quốc để liên hệ với cách mạng và các lực lượng chống Nhật ở Trung Quốc. Bác đến thị trấn Túc Vinh thì bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt. Trong thời gian mười bốn tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trái phép, Bác Hồ thường xuyên bị giải từ nhà lao này đến nhà lao khác khắp mười ba huyện của tỉnh Quảng Tây. Tay bị cùm, chân bị xích, đi trong sương gió lạnh buốt thấu xương hay trong nắng trưa đổ lửa. Vượt dốc, băng đèo, lội suối … với những khó khăn thử thách nhiều lúc tưởng quá sức chịu đựng của con người. Từ thực tế đó, tác giả đã khái quát thành chuyện “Đi đường” nói chung. Đi đường là một trong những bài thơ thể hiện phẩm chất, tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh, ghi lại những lần Bác di chuyển giữa các nhà lao ở Quảng Tây.
Mở đầu bài thơ, Bác trình bày về hành trình đi đường núi gian lao của mình:
Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
đi đường – gian lao” là cách nói trực tiếp nhằm nhấn mạnh việc đi đường rất gian lao khổ cực, chỉ khi bản thân từng trải nghiệm, thực hành qua mới cảm nhận được hết sự vất vả đó. Điệp từ “núi cao” chỉ sự khúc khuỷu, trùng điệp, nối tiếp nhau của những ngọn núi. Ý thơ muốn nói đến những khó khăn gian khổ, những chông gai mà người tù phải trải qua. Có rất nhiều núi cao, hết núi cao này lại đến núi cao khác, cũng giống như những khó khăn trong cuộc sống không bao giờ giảm đi mà trái lại còn tăng cấp.
Ở hai câu thơ cuối, Bác thể hiện niềm vui sướng khi được đứng trên đỉnh cao của chiến thắng:
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
“Lên đến tận cùng” là chinh phục được độ cao của núi, là đứng trên đỉnh cao nhất, không còn khó khăn, trở ngại nào nữa. Mọi gian khổ rồi sẽ kết thúc, mọi khó khăn sẽ lùi về sau thì “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Người đi đường đứng trên đỉnh núi có thể tự do đứng ngắm nhìn mọi cảnh vật bên dưới, ngắm lại những gì mình đã trải qua.
Lời thơ thể hiện phong thái ung dung làm chủ thiên nhiên, hòa mình vào vũ trụ bao la, rộng lớn, nghị lực vượt khó, tinh thần lạc quan, yêu đời của người chiến sĩ cộng sản trên đỉnh cao của chiến thắng, dù đó là con đường đầy ải, chân tay bị trói buộc bởi xiềng, xích. Từ việc đi đường, bài thơ khẳng định một chân lí đường đời đó là: vượt qua được gian lao sẽ đến được đỉnh cao của chiến thắng.
Bài thơ được viết bằng thể thơ tứ tuyệt giản dị, hàm súc, kết cấu bài thơ chặt chẽ, giọng điệu thơ biến đổi linh hoạt, hình ảnh sinh động, giàu ý nghĩa, phép liên tưởng sâu sắc, nghệ thuật ẩn dụ, từ việc đi đường để khái quát lên một chân lí trong cuộc sống:
Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên.