Tập thơ Nhật kí trong tù (Ngục trung nhật kí) của Hồ Chí Minh
1. Hoàn cảnh sáng tác.
Nhật kí trong tù (Ngục trung nhật kí) là một tập thơ của Hồ Chí Minh, viết từ ngày 8 năm 1942 đến năm 1943. Tháng 8 năm 1942, với danh nghĩa là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế. Sau nửa tháng đi bộ, khi vừa đến Túc Vinh, Quảng Tây, Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam vô cớ và giải đi khắp 30 nhà giam ở 13 huyện của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Trong suốt những tháng ở tù (từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943), tuy bị đày ải vô cùng cực khổ, Hồ Chí Minh vẫn làm thơ. Người đã sáng tác 133 bài thơ bằng chữ Hán, ghi trong một cuốn số tay mà Người đặt tên là Ngục trung nhật kí,phần lớn là thơ tứ tuyệt.
2. Nội dung.
Nhật kí trong tù là một cuốn sổ nhật kí, ghi lại những sự việc, những cảm nhận, nỗi bất bình, tâm tư bị oan ức, ý chí rèn luyện, tinh thần vượt qua mọi khó khăn, niềm hi vọng vào tương lai,... của Hồ Chí Minh những lúc nhàn rỗi cho khuây khoả lòng, chứ đó không phải là chủ đích sáng tác của Người.
Tập thơ phản ánh chân thực bộ mặt xấu xa, đen tôi của chê độ nhà tù cũng như xã hội Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch. Là một tập nhật kí, nhưng là nhật kí bằng thơ độc đáo “có một không hai” viết trong tù ngục, đã ghi chép hết sức tỉ mỉ, chi tiết như một cuốn phim tài liệu về những điều mắt thấy tai nghe hằng ngày trong nhà lao, trên đường đi đày từ nhà giam này đến nhà giam khác,… tái hiện lên bộ mặt đen tối của nhà tù Quốc Dân đảng Tưởng Giới Thạch: mười ba tháng bị đày ải trong nhà ngục đến nỗi “răng rụng mất mấy chiếc”, tóc bạc, mắt mờ, đứng không vững,…
Tập thơ thể hiện tâm hồn phong phú, cao đẹp của người tù vĩ đại. về phương diện này, có thể coi Nhật kí trong tù như một bức chân dung tư họa con người tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhật trong tù thê hiện nhât quán tư tưởng Hồ Chí Minh: dùng văn chương làm vũ khí để chiến đấu chông kẻ thù, đó là “Nay trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong”…
Chân dung Hồ Chí Minh trong tập thơ là hình ảnh nhà ái quốc vĩ đại có dũng khí lớn, lúc nào cũng nóng lòng sốt ruột hướng về Tổ quốc, khát khao tự do, là chiến sĩ cộng sản kiên cường bất khuất. Ấy là một tấm gương nghị lực phi thường, một bản lĩnh thép vĩ đại không gì có thể lung lạc được: “Thân thể ở trong lao – Tinh thần ở ngoài lao…”. Ấy là con người có thể vượt lên rất cao trên mọi đau khổ về thể xác, tâm hồn luôn ung dung thanh thoát, thậm chí trẻ trung tươi tắn trong mọi tình huống “Mà như khanh tướng vẻ ung dung”. Ấy là tâm hồn khao khát tự do của Người “Đau khổ chi bằng mất tự do”.
Chân dung Hồ Chí Minh còn là hình ảnh bậc đại nhân có tình thương yêu bao la, tình cảm nhân đạo, thấu hiểu cảnh ngộ của mọi kiếp người, nhạy cảm với niềm vui, nỗi đau của con người. Lòng thương yêu con người của Bác là tinh thần nhân đạo cộng sản, đó là tinh thần nhân đạo mới mẻ mà Bác mang lại cho dân tộc và nhân loại. Tố Hữu nhận xét: “Bấy lâu người ta chỉ hiểu người chiến sĩ cách mạng là thép ở mũi nhọn chiến đấu. Trong tập thơ này ta hiểu rõ thêm người cộng sản là tình. Tình ở đây là tình yêu thương đất nước, cuộc sông và con người. Chủ yếu ở đây chúng ta tìm hiểu, khai thác tình cảm với con người”. Trong tù Bác cũng chịu khổ ải như bất kì tù nhân nào. Dù Bác đã già, bị tù trong hoàn cảnh cô độc, nhưng Người dã quên đi nỗi đau của riêng mình mà đem lòng thương yêu những người bạn tù mà Bác gọi là nạn hữu. Bác diễn tả nỗi lòng thương yêu của mình đối với vợ chồng người bạn tù. Trên con đường giải tù, nhìn thấy người phu làm đường cực khổ dưới nắng mưa, Bác động lòng thương. Vào nhà lao Tân Dương nghe tiếng khóc của một đứa trẻ, Bác vô cùng xúc động.
Tâm hồn Hồ Chí Minh còn nhạy cảm với thiên nhiên. Hồ Chí Minh dành cho thiên nhiên một tấm lòng ưu ái đúng như giáo sư Đặng Thai Mai đã nhận xét: “Trong Nhật kí trong tù, thiên nhiên chiếm một địa vị danh dự”. Mặc dù thân thể bị giam cầm trong ngục tôi nhưng trái tim nhạy cảm của Bác vẫn dễ dàng rung động trước một ánh nắng mai rọi chiếu nơi cửa ngục âm u “Ánh hồng trước mặt đã bừng soi” (Buổi sớm), hoặc giao cảm chan hòa với đêm trăng đẹp “Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ” ( Ngắm trăng). Thiên nhiên trong Nhật kí trong tù đẹp đẽ và ấm áp tình người. Nó thực sự trở thành nguồn động viên, an ủi to lớn đôi với người tù đặc biệt Hồ Chí Minh “Vui say ai cấm ta đừng, Đường xa âu cũng bớt chừng quạnh hiu” (Trên đường đi).
Ngôn ngữ tập thơ Nhật kí trong tù được viết bằng chữ Hán, một thứ chữ hàm súc về ý nghĩa để sáng tác thơ là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, có lúc Người cũng phá cách diễn đạt thông thường của chữ Hán. Bài Cháu bé trong nhà lao Tân Dương, câu thơ đầu trong nguyên tác được viết bằng tiếng Việt: “Oa…! Oa…! Oa…!”, về thể loại, tất cả các bài thơ trong tập thơ Nhật kí trong tù được sáng tác theo thể thơ Đường luật gồm thế thơ thất ngôn hoặc ngũ ngôn, tứ tuyệt hoặc bát cú và thơ cổ phong. Tuy nhiên trong tập thơ, có hai bài thơ phá thể. Đó là bài “Cháu bé trong nhà lao Tân Dương”. Một trường hợp khác là bài “Giải đi Vũ Minh”, về cách cấu tứ, cũng như thơ Đường, trong Nhật kí trong tù, cái tôi trữ tình của tác giả thường hòa lẫn vào ngoại cảnh.
Đọc bài thơ Chiều (Mộ), người đọc hầu như không thấy tác giả về cách biểu hiện, trong thơ Đường nói riêng và trong thơ ca cổ điển phương Đông nói chung, ba yếu tố thơ, nhạc, họa thường hòa quyện làm một. Nó làm cho bài thơ nhỏ có một sức chứa lớn, có âm vang nhiều chiều. Sự quấn quyện giữa thơ, nhạc, họa được thế hiện trong bài Người bạn tù thổi sáo. Các bài thơ Đường thường có cấu trúc gọn, nhẹ, cô đúc, ngôn ngữ gợi nhiều hơn tả, ý ở ngoài lời (Mới ra tù, tập leo núi).
Cũng như thơ Đường, Hồ Chí Minh không tả mà gợi. Nhân vật trữ tình như hòa lẫn vào trong cảnh, mang cốt cách của một nhà hiền triết, nhìn cảnh vật từ trên cao, từ xa, bao quát cả một vùng không gian rộng lớn. Văn chương có con đường giao tiếp riêng của nó. Đó là sự cộng hưởng giữa những tâm hồn. Nhật kí trong tù chung đúc văn hóa kim cổ Đông Tây trong tâm hồn Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không đi lại lối mòn của người xưa. Thái độ đó đã được nói rõ trong bài thơ “Cảm tưởng đọc thiên gia thi”. Trong sự ảnh hưởng và kê thừa đó, Hồ Chí Minh có sự cách tân. Sự cách tân tạo nên một kiểu tư duy thẩm mĩ mới, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Tác phẩm Nhật kí trong tù đã được xuất bản nhiều lần, được dịch và giới thiệu ở nhiều nước trên thế giới, nhiều lần được thể hiện bằng thư pháp tiếng Việt, Hán, Triều Tiên, Nhật,… Không chỉ các tác giả Việt Nam và phương Tây mà ngay chính các nhân vật của Trung Quốc – quê hương của thơ chữ Hán – như Quách Mạt Nhược, Viên Ưng, Hoàng Tranh đều ca ngợi tập thơ này. Nhật kí trong tù là một tác phẩm văn học vô giá của Hồ Chí Minh, khi công bô đã gây tiếng vang lớn trên văn đàn quốc tế, đã chinh phục người đọc bởi những cảm xúc chân thật, chất phác, điềm đạm của một người chiến sĩ cộng sản, một nhà văn hoá lớn. Nhà thơ Xuân Diệu thì khẳng định rằng: “Nhật kí trong tù đứng vô song trong văn học nước ta, vì nó là những tiếng tâm hồn của Hồ Chủ tịch”. Không chỉ có thê Jean Lacouture nhận định: “Nhân cách, học vấn và số phận kì lạ của Cụ Hồ được thể hiện một cách khác thường trong các bài thơ ấy”.
Nhật kí trong tù phản ánh tâm hồn đại trí, đại nhân, đại dũng của một nhà cách mạng đã vượt lên mọi sự đày ải của kẻ thù, vượt qua mọi thử thách, giữ vững khí phách kiên cường, tinh thần lạc quan và lòng nhân ái vô song của một nhà cách mạng đốì với nhân loại đau thương, bất kể họ là ai, nguồn gốc thế nào. Hình ảnh Hồ Chí Minh toả sáng từ vẻ đẹp của những bài thơ, bởi một tâm hồn thơ, bởi sự kiên trung trong ý chí, tinh thần lạc quan cách mạng, tinh thần nhân đạo, lòng yêu nước, yêu thương con người vô bờ bến của người cộng sản Hồ Chí Minh. Chính vì thế Nhật kí trong tù xứng đáng là viên ngọc quý trong kho tàng văn học Việt Nam và trên thế giới.