»» Nội dung bài viết:
So sánh hình tượng người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Tây Tiến của Quang Dũng.
* Hướng dẫn làm bài:
– Đề tài về người lính là đề tài quen thuộc của thơ ca kháng chiến chống Pháp.
– Cùng viết về một đề tài song vẻ đẹp của hình tượng người lính trong Đồng chí qua cảm nhận của Chính Hữu và vẻ đẹp của hình tượng người lính trong Tây Tiến qua cảm nhận của Quang Dũng lại khác nhau.
1. Điểm giống nhau.
– Hai tác phẩm cùng ra đời năm 1948, là những hình ảnh người lính đang sống, chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp – bảo vệ tổ quốc
– Họ đều là những anh lính bộ đội cụ Hồ sống chiến đấu trong buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp trải qua bao gian nan thử thách, khắc nghiệt nhưng sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn:
+ Với người lính “Tây Tiến”: Họ vượt lên thiên nhiên hiểm trở, dữ dội (Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm; Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người) cuộc sống thiếu thốn, bệnh tật (Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc…)
+ Với người lính trong “Đồng chí” là tinh thần chịu đựng gian khổ (áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá, chân không dày, đêm rét chung chăn,…) chịu chung những cơn sốt rét (anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh; Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi…)
– Cả hai người lính đã không bị gian khổ đẩy lùi mà họ lớn lên với tầm vóc lớn lao, đầy sức mạnh, một tinh thần lạc quan:
+ Trong “Tây Tiến”: trước thiên nhiên khắc nghiệt họ không hề chìm đi mà nổi lên hiên ngang, thách thức (Heo hút cồn mây súng ngửi trời…).
+ Trong “Đồng chí”: cũng là vẻ đẹp hiên ngang trong đêm canh gác ( Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới; Đầu súng trăng treo)
2. Điểm khác nhau.
– Về hoàn cảnh xuất thân:
+ Người lính “Tây Tiến” ra đi từ những phố phường, mái trường, công sở, là những thanh niên tri thức hà thành nên họ mang theo vào cuộc chiến đấu giấc mơ của một tâm hồn lãng mạn (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm)
+ Người lính trong “Đồng chí” xuất thân từ những mái tranh nghèo, từ những vùng quê, đất mặn đồng chua, đất cày lên sỏi đá (Quê hương anh nước mặn đồng chua; Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá) nên họ mang vào cuộc chiến đấu cái dáng vẻ lam lũ của những miền quê.
– Về vẻ đẹp của tâm hồn:
+ Vẻ đẹp tâm hồn của người lính trong “Đồng chí” lại được nhấn mạnh đến tình đồng chí đồng đội giữa những người lính. Cơ sở làm nên tình cảm của họ là có chung một hoàn cảnh nghèo khổ nên họ dễ đồng cảm, có chung một chí hướng (“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”), chung tấm lòng yêu quê hương đất nước… Chính tình đồng đội, đồng chí đó đã tạo nên sức mạnh chiến đấu.
+ Người lính “Tây Tiến” mang vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng rất hào hoa (Mắt trừng gửi mộng qua biên giới./Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm) Tâm hồn bay bổng trước vẻ đẹp của thiên nhiên (Heo hút cồn mây súng ngửi trời). Một tâm hồn nghệ sĩ trong sinh hoạt tinh thần (“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa; Kìa em xiêm áo tự bao giờ; Khèn lên man điệu nàng e ấp; Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”).
– Về bút pháp thể hiện:
+ Hình tượng người lính “Tây Tiến” được vẽ bằng bút pháp lãng mạn.
+ Hình tượng người lính trong bài “Đồng chí” được thể hiện bằng bút pháp tả thực.
3. Đánh giá.
– Hai hình tượng người lính này mang những vẻ đẹp khác nhau nhưng đã hoàn chỉnh bức chân dung anh bộ đội Cụ Hồ trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.
– Hình tượng người lính đã sống lại trong lòng người đọc về một thời khổ nhục nhưng vĩ đại của dân tộc.
Tham khảo:
- Thân bài:
Có thể nói Đồng chí của Chính Hữu và Tây Tiến của Quang Dũng là hai bài thơ hay nhất viết về hình tượng người lính kháng chiến chống pháp. Với những nét khác biệt về phong cách sáng tác, hai nhà thơ đã xây dựng nên hình tượng những người lín vừa giản dị, đơn sơ, vừa lẫm liệt, kì vĩ.
- Thân bài:
Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã xây dựng thành công hình tượng người lính chiến đấu. Họ nhanh chóng trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Nếu như Chính Hữu viết về một người lính xuất thân nông dân, ra đi từ làng quê nghèo với những nét vẽ chân thực trong Đồng Chí, thì trong Tây Tiến Quang Dũng lại viết về người lính đến từ thủ đô với những nét vẽ lãng mạn, bay bổng.
Cả Đồng chí và Tây Tiến đều được sáng tác vào năm 1948, những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, với bối cảnh là khu chiến trường miền Tây Bắc khắc nghiệt và hoang sơ. Trước hoàn cảnh khó khăn của cuộc chiến cả Chính Hữu và Quang Dũng đều có những cảm xúc về hình tượng người lính anh hùng, kiên định vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, với vẻ đẹp mang khuynh hướng sử thi. Đặc biệt với xuất thân là người lính trực tiếp bước ra từ chiến trường đầy máu và lửa thì những vần thơ của hai tác giả khi nói về hình tượng người lính chiến lại càng trở nên chân thực và rõ nét hơn cả. Chính điều đó đã khiến người lính trong Đồng chí và cả Tây Tiến trở thành những tượng đài bất hủ trong nền văn học chiến tranh cách mạng với những nét chung như trên và những nét riêng đặc sắc khác.
Cả hai bài thơ chúng ta đều thấy hiện lên những nét điển hình trong phong cách sử dụng ngôn ngữ để làm nổi bật lên toàn bộ tác phẩm, những giá trị của các tác phẩm này đều để cho nhân loại những đặc điểm điển hình và mạnh mẽ nhất. Ngôn ngữ trong hai tác phẩm này có thể thấy có sự khác nhau khi trong Tây Tiến ngôn ngữ của nó hào hùng bi tráng và mang nhiều màu sắc biểu tượng. Còn đối với bài thơ Đồng Chí ngôn ngữ chất phác, và mang giá trị về màu sắc đã làm nổi bật lên toàn bộ tác phẩm với hai nghệ thuật có thể thấy nó hoàn toàn khác nhau, và mục đích có thể thấy là giống nhau, nhưng trong biệt tài sử dụng ngôn ngữ của các nhân vật. Với những nét điển hình và đặc sắc, nó tạo nên những phong phú trong nghệ thuật của tác giả đối với chính tác phẩm của mình. Những hình tượng nổi bật trong tác phẩm hiện lên hoàn toàn sâu sắc và mang màu sắc tươi tắn tạo nên những hình ảnh và giá trị có ý nghĩa nhất.
Sự khác biệt trong cách sử dụng ngôn ngữ và tính chất biệt lập trong cách tạo hình nhân vật đã làm sống động lên những giây phút hân hoan, và biệt lập đối với cuộc sống của nhân vật xuất hiện trong tác phẩm. Những ngôn ngữ tạo lên sự biệt lập về ngôn ngữ để có giá trị ý nghĩa và mang ý nghĩa biểu trưng mạnh mẽ, tác phẩm của Quang Dũng và Chính Hữu tạo nên những ý nghĩa biểu trưng về cuộc sống và giá trị mang tầm ý nghĩa sâu sắc đối với toàn bộ tác phẩm.
Chính Hữu là nhà thơ tiêu biểu, trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp lần hai. Với phong cách thơ nhỏ nhẹ, đằm thắm, trữ tình thiết tha, Chính Hữu để lại rất nhiều những bài thơ hay, độc đáo cho nền văn học dân tộc. Bài thơ được viết đầu năm 1948 những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng khó khăn gian khổ cả về vật chất lẫn tinh thần, đời sống kháng chiến. Tinh thần đoàn kết thương yêu của đồng chí, đồng đội họ đã vượt qua để chiến đấu chiến thắng. Chính Hữu viết “Đồng Chí” hướng ngòi bút vào chất hiện thực đời sống kháng chiến khai thác cái đẹp trong cái giản dị chân thực, đời thường. Tình đồng chí đồng đội thắm thiết sâu nặng của người lính cách mạng rất tự nhiên như vốn có ngoài đời, đúng với phẩm chất người lính cụ Hồ, giản dị mà anh hùng
Hình tượng người lính ở thơ Chính Hữu nó mang vẻ chân thực đến khắc nghiệt, và nổi bật lên trên đó là tình đồng chí gắn kết sâu nặng trong chiến đấu. Chính Hữu không đề cập nhiều đến vẻ đẹp tâm hồn mà thay vào đó ông đi sâu và hoàn cảnh xuất thân và hoàn cảnh chiến đấu đầy gian khổ của họ để làm nổi bật vẻ đẹp anh hùng. Trước hết nói về xuất thân, Chính Hữu và đồng đội đều là những người con của mảnh đất miền trung đầy nắng và gió. Anh bộ đội Cụ Hồ vốn là những nông dân mặc áo lính mang trong mình lí tưởng cao đẹp. Vì sự sống còn của Tổ quốc, họ tạm biệt bến nước sân đình, bãi mía nương dâu để ra đi chiến đấu. Ta hãy nghe lời tâm sự của họ khi nói về quê hương mình:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Thành ngữ “nước mặn đồng chua”, gợi lên một miền đất nắng gió ven biển, đất đai bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, rất khó trồng trọt. Còn cụm từ “đất cày lên sỏi đá” lại gợi lên trong lòng người đọc về một vùng đồi núi, trung du đất đai cằn cỗi, khó canh tác. Đó là xuất phát điểm về hoàn cảnh xuất thân và cuộc sống của những chàng trai nông dân chân lấm tay bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa, chỉ quen với tay cuốc, tay cày sau lũy tre làng. Thế nhưng, khi tổ quốc lâm nguy, họ đã sẵn sàng gác lại tất cả những gì quí giá nhất, thân thiết nhất nơi làng quê để ra đi chiến đấu:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
Ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa… là những hình ảnh giản dị, quen thuộc ở mọi làng quê Việt Nam. Có lẽ lúc này người lính đang rất nhớ tới quê hương, nơi có gia đình, người thân, có ruộng nương, gian nhà, những tình cảm đẹp đẽ của họ từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành. Nhưng từ “mặc kệ” đã cho thấy sự quyết tâm ra đi của những người lính; họ gửi lại quê hương, ruộng nương, gian nhà và cả những tình cảm buồn vui của thời thơ ấu cho người thân yêu để lên đường cầm súng đánh giặc cứu nước. Tinh thần hi sinh mạnh mẽ ấy đã được nhà thơ Thanh Thảo bộc bạch bằng lời thơ của mình:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc”.
Như vậy, câu thơ đã cho thấy được ý thức trách nhiệm công dân cao độ của người lính đối với dân tộc khi tổ quốc lâm nguy. Điều đó cho thấy lòng yêu nước mạnh mẽ, sâu sắc của họ. Hình ảnh “giếng nước gốc đa” là một hình ảnh rất giàu sức gợi, đây vừa là nhân hóa, lại vừa là hoán dụ biểu trưng cho quê hương, người thân nơi hậu phương luôn luôn dõi theo và nhớ nhung người lính da diết. Câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực ra là người lính đang nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết, khôn nguôi. Nhưng chính nỗi nhớ quê hương ấy, lại là động lực mạnh mẽ, thôi thúc và tiếp bước cho họ vươn lên mà mạnh mẽ, trưởng thành, vì sự nghiệp chung lớn lao của đất nước, dân tộc. Những người lính nông dân áo vải ấy đã trải qua biết bao nhiêu gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sốt rét run người hành hạ, trang phục phong phanh giữa mùa đông buốt giá:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”
Hình ảnh: “ớn lạnh, sốt run người, ướt mồ hôi” là những biểu hiện cụ thể để nói về căn bệnh sốt rét rừng rất nguy hiểm khi mà trong chiến tranh không hề có đủ thuộc men để chạy chữa. Vì thế các anh – những người lính anh hùng dũng cảm phải cắn răng chịu đựng, tự lực, tự cường mà vượt qua gian khổ. Đây là một hình ảnh xuất phát từ cái nhìn chân thực của người lính trong chiến tranh. Và căn bệnh sốt rét này không phải chỉ xuất hiện trong thơ Chính Hữu mà trong rất nhiều các bài thơ của các nhà thơ kháng cũng đã từng nhắc tới. Trong bài thơ
“Tây Tiến” của Quang Dũng, nhà thơ cũng đã viết:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.”
Hay trong bài “Dấu chân qua trảng cỏ” của Thanh Thảo, ông cũng từng có câu thơ:
“Những người sốt rét đương cơn
Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe.”
Căn bệnh sốt rét – nỗi ám ảnh kinh hoàng của người lính trong chiến tranh, đã hành hạ họ, khiến họ tiều tụy xanh xao, màu da vàng vọt, tóc thì rụng hết… Vì thế lúc này, chỉ có tình yêu thương, sự đùm bọc lẫn nhau của những người lính là thuốc bổ tinh thần, giúp họ cùng nhau cộng hưởng, sẻ chia mà vươn lên chiến thắng chính mình. Không dùng lại ở đó, người lính còn phải đối diện với cả sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất: “áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày”. Nhưng trong hoàn cảnh ấy, những người lính vệ quốc, họ đã chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động chân thành: “Miệng cười buốt giá”, “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Chính nụ cười đã xoá tan đi cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ đùa vui trong gian khổ thiếu thốn. Cùng động viên nhau qua ánh mắt nụ cười. Dù đó chỉ là nụ cười gượng gạo trong “buốt giá” nhưng vẫn chứa chan tình cảm, cho thấy được sự lạc quan mạnh mẽ của họ trong cuộc sống chiến đấu. Còn hành động “tay nắm lấy bàn tay” là một cử chỉ rất cảm động và cần thiết vào lúc này. Họ đã truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, cùng dắt tay nhau tiến lên phía trước, vì mục tiêu lí tưởng cách mạng lớn lao: vì hòa bình dân tộc. Và có lẽ, tình yêu thương nhau đã lấp đầy khoảng trống, làm dịu vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Tất cả những cử chỉ ánh mắt, nụ cười, nắm tay ấy đã giúp họ có thêm động lực để vượt qua khó khăn, thử thách. Điều ấy đã làm cho tình đồng chí thêm keo sơn, gắn bó và hóa thành sức mạnh đoàn kết trong suốt cuộc kháng chiến trường kì. Hình ảnh người lính và tình đồng chí của họ đã kết tinh, tỏa sáng trong đoạn thơ cuối của bài thơ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Ba câu thơ cuối vừa giàu chất hiện thực, lại vừa đậm đà chất lãng mạn bay bổng, vừa gợi tả bức tranh không gian toàn cảnh của núi rừng, lại vừa đặc tả tình cảm ấm áp của những người lính trong chiến tranh. Đây là biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí, đồng đội. Đó là khoảng thời gian “đêm nay” rất cụ thể với khung cảnh “rừng hoang – sương muối” hiu quạnh, lạnh lẽo và khắc nghiệt. Tuy nhiên, người lính vẫn đứng cạnh bên nhau để “chờ giặc tới”. Động từ “chờ” cho thấy được tư thế chủ động và hết sức đề cao cảnh giác của người lính trong khi làm nhiệm vụ. Nghệ thuật tương phản đối lập được tạo ra rất cân đối giữa một bên là không gian núi rừng lạnh lẽo, hoang vu, vắng lặng; với một bên là tư thế chủ động mạnh mẽ như lấn át cả không gian toàn cảnh của người lính. Chính sức mạnh của tình đồng chí đã làm cho người lính vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt đó. Các từ gần nghĩa “cạnh – bên” cho thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết, gắn bó luôn có nhau của những người lính. Trên cao là ánh trăng treo lơ lửng trên bầu trời, dưới cái nhìn lãng mạn hóa của Chính Hữu, ánh trăng như đang treo ở đầu mũi súng. Và “Trăng” theo đó như trở thành người bạn vừa chứng minh cho tình cảm đồng chí keo sơn của người lính, vừa soi sáng và sưởi ấm cho không gian của rừng đêm sương muối lạnh lẽo bên trên. Hình ảnh “súng – trăng” được đặt cạnh bên nhau khiến người đọc có nhiều liên tưởng: giữa thực tại – mơ mộng; chiến tranh – hòa bình; chiến sĩ – thi sĩ. Sự đan cài giữa hiện thực và lãng mạn ấy vừa cho thấy được hiện thực chiến tranh khó khăn, vất vả; lại vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính: họ vừa là chiến sĩ lại vừa là thi sĩ, họ cầm súng chiến đấu để bảo vệ quê hương, đem lại nền độc lập , tự do cho Tổ Quốc thân yêu. Có thể nói, ba câu thơ cuối một bức tranh đẹp, như một bức tượng đài sừng sững của hình ảnh người lính cách mạng với tình đồng chí thiêng liêng, sâu sắc. Chính tình cảm đồng chí đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ.
Bài thơ “Đồng chí” là một bài thơ hay, độc đáo viết về người lính cụ Hồ. Qua bài thơ, người đọc thấy được vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, cao cả, thiêng liêng của người lính cách mạng. Có thể nói, bài thơ là một bức tượng đài người nông dân mặc áo lính rất đẹp, tráng lệ, hào hùng của thời kì đầu kháng Pháp.
Khác với người lính trong bài thơ Đồng chí, những người lính trong bài thơ Tây Tiến xuất thân là những chằng trai của dất Hà thành. Chiến sĩ Tây Tiến phần lớn là thanh niên, học sinh sinh viên Hà Nội. Họ là những người biết đến chiến trường khắc nghiệt, nguy hiểm và thiếu thốn kể từ khi đi lính. Bài thơ Tây Tiến là kỉ niệm, hoài niệm của tác giả thay cho lời muốn nói của những người chiến sĩ kiên cường và đồng thời là lời của đồng bào dân tộc ta. Hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ mang những nét phẩm chất đặc trưng của người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.
Ở những người lính Tây Tiến, luôn có một vẻ đẹp hào hoa, nó xuất phát từ tinh thần của những con người có học, những người được tiếp xúc với nền giáo dục mới, và được sống ở nơi phồn hoa đô hội. Nói chính xác thì họ được xem là những phần tử tiểu tư sản trí thức, với tư tưởng phóng khoáng, đặc biệt họ lại là những thanh niên tuổi còn trẻ, đang còn phơi phới giấc mộng xuân, nên việc mơ về một “dáng kiều thơm” là chuyện rất đỗi thường tình. Đặc biệt trước cái hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, với những cơn sốt rét rừng kinh hoàng, với những cung đường hành quân khúc khuỷu, chập chùng thì những niềm vui nho nhỏ khi nghĩ về cố hương, khi nghĩ về những thứ lãng mạn lại chính là động lực to lớn để họ có thêm sức mạnh chiến đấu. Về bối cảnh chiến đấu, Tây Tiến có phần khác Đồng chí ở chỗ, đoàn quân Tây Tiến được thành lập năm 1947 để phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới vùng Tây Bắc và đánh tiêu hao lực lượng địch. Thế nên địa bàn hoạt động của binh đoàn vô cùng rộng trải dài khắp vùng Tây Bắc, sang cả Sầm Nưa của Lào, rồi vòng về miền tây Thanh Hóa. Chính bởi địa bàn hoạt động rộng lớn, nên hoàn cảnh những năm đầu của cuộc kháng chiến vô cùng khắc nghiệt, giữa một vùng rừng thiêng nước độc, người lính Tây Tiến luôn phải đối mặt với nhiều nguy hiểm và khó khăn cận kề. Nào là:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”
rồi “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”. Có những lúc hành quân trong sương muối buốt lạnh, người sau chỉ thấy lưng người đằng trước cũng đôi lần khiến người lính mệt mỏi, ngao ngán nhưng dĩ nhiên không vì thế mà họ buông xuôi. Đặc biệt, không trận chiến nào mà không có sự hy sinh mất mát, những năm đầu kháng chiến, tất cả quân nhu yếu phẩm đặc biệt là thuốc men đều vô cùng khan hiếm. Thế nên những cơn sốt rét rừng đã trở thành ác mộng của người lính chiến, họ không chết vì bom đạn giặc thù mà chết vì bệnh tật hành hạ. Hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/Gục lên súng mũ bỏ quên đời”, đọc sơ cứ tưởng người lính nằm ngủ trên súng mũ, nhưng hóa ra đó là một cái chết, một cái chết nhẹ tựa lông hồng, chết bên lý tưởng mà họ vẫn theo đuổi, vẫn ôm trọn súng mũ vào lòng, chết không nuối tiếc.
Người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp rất lạ và rất đặc trưng, nó là sự kết hợp của sự hào hùng, bất khuất kiên cường với lại sự lãng mạn và hào hoa đến từ sâu trong tâm hồn những con người trẻ tuổi. Chính sự giao hòa giữa hai yếu tố cương, nhu ấy đã đem đến một hình tượng người lính rất thật, rất độc đáo và sâu sắc là bức tường thành của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trước tiên nói về sự hào hùng, dữ dội trong dáng vẻ, ngoại hình, người lính Tây Tiến không có một dáng vẻ sạch sẽ, cao to mà thay vào đó là những người lính với cái đầu “không mọc tóc”, với “quân xanh màu lá”. Một màu da xanh xám vì căn bệnh sốt rét hành hạ quá lâu, kèm theo đó là thiếu máu khiến tóc rụng bằng sạch. Vì điều kiện hành quân gian khổ, không được ăn ngủ đủ giấc, vì chiến trường căng thẳng và ác liệt nên người lính chiến mới có bộ dạng tiêu điều, xơ xác như vậy.
Thế nhưng trong cái bộ dạng kỳ dị ấy lại là sự dữ dội và oai hùng mà theo như cách nói của Quang Dũng là họ cố tình “không mọc tóc” để bản thân càng thêm ghê gớm, làn da xanh tái kết hợp với màu quân trang lại là sự ngụy trang hoàn hảo nhất, kết hợp với cái đầu không tóc cho ra đời một đội quân “dữ oai hùm” giữa chốn rừng thiêng nước độc, để kẻ thù thấy mà thêm phần e ngại. Không chỉ vậy, thông qua ngoại hình kỳ dị của người lính Tây Tiến, ta lại càng thấu hiểu hơn những hy sinh, mất mát cùng với tinh thần chiến đấu kiên cường, vượt qua mọi gian khổ khó khăn, bởi cái mà họ đối mặt không chỉ đơn giản là bom đạn giặc thù, mà còn là điều kiện chiến đấu vô cùng khắc nghiệt, lằn ranh sinh tử trở nên vô cùng mong manh và họ buộc phải trở nên cứng rắn mạnh mẽ để vượt qua, đề hoàn thành lý tưởng cách mạng. Bên cạnh vẻ hào hùng, dữ dội trong ngoại hình, thì nổi bật nhất ở người lính Tây Tiến chính là ý chí chiến đấu, lý tưởng cách mạng mang đậm khuynh hướng sử thi.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Vẫn biết rằng ra đi là không hẹn ngày trở lại, thế nhưng người lính chiến vẫn chưa từng có ý nghĩa lùi bước. Họ sẵn sàng hiến dâng cho Tổ quốc tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất cuộc đời, tuổi hai mươi mấy là lứa tuổi mà con người ta có nhiều nỗi băn khoăn trăn trở nhất, còn đối với các anh thì chỉ có một nỗi buồn duy nhất ấy là Tổ quốc chưa yên. Thế nên chiến trường trở thành nơi các anh hướng đến, lòng các anh chỉ ngập tràn một lý tưởng cách mạng, cái chết dẫu là sợ hãi nhưng đứng trước Tổ quốc yêu thương đang vẫy gọi, thì nó dường như không còn quan trọng nữa. Mảnh đất này đã sinh ra và nuôi lớn các anh, thế nên các anh phải có nghĩa vụ phụng sự và bảo vệ nó bằng bất cứ giá nào, kể cả phải hy sinh tính mạng, các anh cũng chẳng hề nuối tiếc. Với phong cách thơ của Quang Dũng thì hình tượng người lính chiến với sự hy sinh, mất mát đau thương, nhưng không hề bi lụy, thay vào đó là cảm xúc bi tráng, hào hùng. Với những vần thơ rất hay, rất trang trọng:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành“.
Nét đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến làm tỏa sáng vẻ đẹp lí tưởng của giới trẻ thời kì kháng chiến. Công cuộc bảo vệ đất nước dài đằng đẵng và khó khăn biết mấy, hòa bình đánh đổi bằng mồ hôi xương máu và muôn vàn sự hy sinh. Đã có biết bao người lính trẻ đã ngã xuống giữa đất trời Tây Bắc. Thân xác các anh nằm lại nơi biên cương “viễn xứ”. Thế nhưng họ vẫn hùng dũng kiên cường cầm súng bảo vệ tổ quốc mà “chẳng tiếc đời xanh”. Cho đến khi ngã xuống, thân xác họ chỉ có chiếc chiếu quý như chiếc “áo bào”, chôn “rải rác”. Những cái chết ấy vừa bi thương vừa tráng lệ, để đời sau cảm phục biết bao trước sự hy sinh bất khuất của những người lính Tây Tiến anh hùng.
Câu thơ tựa như cảnh xông pha trận mạc rồi hy sinh của các tráng sĩ thời cổ đại, với vẻ đẹp kiêu hùng, anh dũng vô cùng. Quang Dũng là một người lính xuất sắc, cũng là người may mắn sống sót sau những trận chiến ác liệt và những trận sốt rét rừng khủng khiếp. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc ông phải chứng kiến cảnh hàng loạt đồng đội ngã xuống trên đất mẹ và cả trên đất khách, điều kiện thiếu thốn đến mức manh chiếu bó thay cũng không có đủ. Đau xót là thế nhưng bước vào thơ Quang Dũng, với tinh thần lãng mạn và lạc quan, ông không để sự bi thương chi phối quá mức, thay vào đó cái chết của người lính chiến lại được tác giả đưa vào thơ với vẻ oanh liệt, anh hùng bất tử. Cái chết để cả núi sông phải gầm lên “khúc độc hành” tiễn đưa thay cho kèn, trống tầm thường.
Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng mà quên đi những nét hào hoa, lãng mạn thì quả là một thiếu sót lớn, và không hoàn chỉnh. Bên cạnh những lúc hành quân khắc khổ, những trận chiến ác liệt, những đợt rét buốt của sương muối, của bệt tật thì người lính cũng có những lúc được thả lỏng. Đó là những lúc:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
Người lính thể hiện tinh thần yêu đời, yêu cuộc sống khi say mê nhảy múa quanh đống lửa, say mê ánh mắt nụ cười của những cô gái trẻ, say mê cả điệu nhạc rộn ràng, vui tươi. Đó chính là bản chất tâm hồn của người lính Tây Tiến, những con người đã từ bỏ áo trắng, mực xanh lên đường ra chiến tuyến nhưng chưa bao giờ từ bỏ cái tâm hồn bay bổng, đầy mơ mộng. Và nó cũng chính là tuổi trẻ, một tuổi trẻ có những khát khao về tình yêu, sự ham vui, ưa sôi động để làm giàu cho cuộc sống. Chính những điều ấy đã nuôi dưỡng một tâm hồn kiên cường và mạnh mẽ khi chiến đấu, tiếp sức cho người lính những lúc tưởng chừng quá mệt mỏi và gục ngã. Không chỉ trong những giây phút nghỉ ngơi, đặt doanh trại mà cả trong những lúc chiến đấu, hành quân, người lính chiến cũng trong mình tâm hồn lãng mạn, hào hoa.
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Những đêm không ngủ chờ giặc trên đất khách, lòng người chiến sĩ trẻ tuổi lại hướng về quê hương yêu dấu, nơi thủ đô ấy có gia đình, có bạn bè, trường lớp và có cả những “dáng kiều thơm”. Cũng cần nhắc lại rằng, trước đây cũng chỉ vì hai câu thơ có phần quá lãng mạn và nghiêng về tình cảm cá nhân này mà một thời gian dài Tây Tiến bị xa lánh, bị cô lập. Nhưng từ sau năm 1986, với những đổi mới trong chủ trương chính sách của nhà nước về văn hóa nghệ thuật, thì Tây Tiến đã được trả về với đúng vị trí mà nó xứng đáng có được. Và hai câu thơ trên cũng trở thành điểm nhấn quan trọng của cả bài thơ, phản ánh rất chân thực đời sống tinh thần, tâm tư tình cảm của người lính trong chiến đấu. Họ còn trẻ, họ có quyền được mưu cầu hạnh phúc, và những cô gái mang áo dài, với dáng vẻ yêu kiều, nền nã chính là mơ ước của họ. Các anh hy sinh tuổi trẻ, hy sinh mạng sống để lên lên đường đi chiến đấu trước hết là vì lý tưởng cách mạng, vì Tổ quốc, nhưng bao hàm trong đó còn là vì lợi ích cá nhân, vì bảo vệ hạnh phúc của riêng họ nữa. Chung quy lại, sự kết hợp giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong Tây Tiến của Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài người lính chiến bất hủ, mang vẻ đẹp của thời đại và sống mãi trong trái tim người đọc.
Để làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp độc đáo và mới lạ tác giả đã tận dụng tối đa sức biểu đạt của phép tương phản giữa hoàn cảnh chiến đấu với thái độ, tư thế và phẩm chất người lính. Bên cạnh đó việc sử dụng từ chỉ địa danh đã gợi tả vùng đất xa xôi, gợi kỉ niệm về một thời chiến đấu gian khổ. Ngoài ra còn rất nhiều những từ láy tượng hình tô đậm vẻ đẹp người lính, phép điệp từ, điệp vần và hình ảnh nhân hoá. Trong bài thơ “Tây Tiến” Quang Dũng đã có những tái hiện đầy tinh tế về vẻ đẹp của hình tượng người lính, những câu thơ nói về người lính vừa lãng mạn, vừa đậm chất sử thi mang âm điệu hào hùng rắn rỏi. Nhờ đó mà hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong lòng người đọc trở nên đẹp lí tưởng, vừa hào hùng, hào hoa lại đậm chất bi tráng.
- Kết bài:
Đối với mỗi hình ảnh người lính trong hai bài thơ ta đều có thể nhận thấy được những vẻ đẹp riêng biệt, một bên là sự hào hùng lãng mạn, một bên là sự kiên cường, thực tế. Tất cả những vẻ đẹp riêng ấy đã tổng hòa lại, làm nên hình tượng người bộ đội cụ Hồ anh dũng, bất tử trong lòng độc giả và trong lòng của toàn dân tộc Việt Nam mãi về sau. Năm tháng đã và sẽ trôi qua nhưng những bài thơ viết về người lính trong giai đoạn lịch sử oanh liệt này vẫn còn mãi trong nền văn học dân tộc, trong lòng người dân Việt, mãi mãi là niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam.
Cảm nhận vẻ đẹp hào hoa, hào hùng và bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến