“Hình tượng văn học không chỉ là thế giới sống, mà còn là “thế giới biết nói”. Bằng hiểu biết về thiên nhiên trong các đoạn trích “Cảnh ngày xuân” “Kiều ở lầu Ngưng Bích” Truyện Kiều của Nguyễn Du (SGK Ngữ Văn 9, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam) em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
- Mở bài:
– Tác giả Nguyễn Du: là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới.
– “Truyện Kiều”: là kiệt tác của Nguyễn Du, là tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam và được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
– Giới thiệu vị trí hai đoạn trích và dẫn dắt thiên nhiên trong Truyện Kiều không chỉ là thế giới sống, mà còn là “thế giới biết nói”.
- Thân bài:
1. Giải thích ý kiến:
– Hình tượng văn học là một thế giới sống: Đó là hình tượng nghệ thuật được người nghệ sĩ sáng tạo nên từ thế giới hiện thực khách quan một cách sống động, cụ thể. Hình tượng nghệ thuật tái hiện đời sống nhưng không sao chép y nguyên mà có chọn lọc, sáng tạo thông qua lăng kính của nhà văn, nhà thơ.
– Hình tượng văn học là thế giới biết nói: Người nghệ sĩ sáng tạo hình tượng văn học trong tác phẩm là để nhận thức và cắt nghĩa đời sống, thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình, gửi gắm một lời nhắn nhủ về con người, về cuộc sống. Thông qua hình tượng văn học, người đọc phải suy nghĩ, nhận thức về con người, cuộc sống để lựa chọn cho mình một lối sống đúng đắn. Người đọc có thể tìm thấy tiếng nói đồng điệu trong tác phẩm mà người nghệ sĩ muốn truyền đạt.
→ Ý kiến trên đã khẳng định đặc trưng của hình tượng trong tác phẩm văn học: Hình tượng nghệ thuật vừa mang tính khái quát, vừa mang những nét cụ thể, cá biệt,vừa là thước đo giá trị tài năng của nhà văn và là tiêu chí đánh giá giá trị của mỗi giai đoạn, mỗi thời kì văn học.
2. Lí giải vì sao hình tượng văn học không chỉ là thế giới sống, mà còn là “thế giới biết nói”?
– Hình tượng nghệ thuật là phương thức giao tiếp đặc biệt giữa nhà văn và độc giả. Hình tượng là thế giới sống do nhà văn tạo ra bằng sức gợi ngôn từ. Gọi là hình tượng vì một mặt, nó cũng sống động và hấp dẫn như y thật, nhưng mặt khác nó chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của con người, nó không phải là sự thật trăm phần trăm.
– Hình tượng, một mặt nó vừa mang tính khách quan, mặt khác vừa mang tính chủ quan của nghệ sĩ. Hình tượng không chỉ là thế giới đời sống, mà còn là “thế giới biết nói”. Thông qua các chi tiết, nhân vật trong tác phẩm, nhà văn muốn đối thoại với độc giả về quan niệm nhân sinh nào đó. Một số đoạn trích trong đề bài đã thể hiện rõ ý kiến trên
3. Phân tích, chứng minh:
a. Thiên nhiên trong các đoạn trích “Cảnh ngày xuân” “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một thế giới sống, được nhìn qua tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, thấm đượm yêu thương của Nguyễn Du.
– Cảnh ngày xuân:
+ Thiên nhiên trong bốn câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên tươi sáng, khoáng đạt rộng lớn, mang đến không khí trong trẻo, thanh khiết của mùa xuân. Hình ảnh gợi ra sự vui tươi, náo nhiệt, yêu đời trong tâm hồn con người. (cảnh chim én bay lượn, cỏ xanh tận chân trời, cành lê trắng).
+ Thiên nhiên trong sáu câu thơ cuối vẫn là cảnh màu xuân thanh thanh, nhẹ nhàng nhưng bao trùm lên đó là cảm giác trầm lắng, nuối tiếc, mênh mang sâu rộng trong lòng nhân vật. Thiên nhiên được miêu tả theo sự thay đổi của thời gian chuyển từ buổi sáng sớm sang buổi hoàng hôn, cảnh vật từ rộng lớn, tươi đẹp sang nhỏ nhắn, suy tư (Tìm các cảnh vật và từ láy thể hiện điều này).
– Kiều ở lầu Ngưng Bích:
+ Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu là cảnh tượng trước lầu Ngưng Bích trong tầm mắt Kiều, có thể nói đây là cảnh tượng khách quan đơn thuần, mang vẻ đẹp tự nhiên, nhưng quá đỗi rộng lớn, trống trải, tạo cảm giác mênh mang, vô tận và lạnh lẽo (hình ảnh trăng, núi, cồn cát, bụi hồng).
+ Thiên nhiên trong tám câu thơ cuối là bức tranh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng của Kiều thể hiện sự vận động, thay đổi nhận thức của Kiều. Thể hiện thông qua hệ thống các hình ảnh ước lệ tượng trưng quen thuộc như thuyền, buồm, cửa bể, hoa, dòng nước, nội cỏ, và các từ láy thể hiện sắc thái của cảnh vật đồng thời cũng là của con người (tự liệt kê và phân tích).
→ Thiên nhiên không chỉ là cái bình phong, là hình thức để Nguyễn Du ngụ tình, mà thiên nhiên là đối tượng thứ nhất, có vẻ đẹp tự thân, hiện lên chân thực, có hồn, thể hiện tình yêu cái đẹp và tạo vật của thi hào Nguyễn Du.
2. Thiên nhiên đó còn là thế giới biết nói: Tiếng nói thắm đượm tình người.
– Cảnh ngày xuân: Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong đoạn trích này là xúc cảm đẹp của nội tâm hai nàng Kiều và cũng là ước vọng của Nguyễn Du về tuổi trẻ, hạnh phúc, sự bằng an (hình ảnh chim én, hình ảnh cỏ non, hình ảnh hoa lê trắng, cảnh lễ hội , nỗi buồn tan cuộc, cõi lòng vấn vương một cách đặc biệt gợi cảm, thấm thía qua đảo ngữ, qua dùng từ láy, dùng các phó từ , qua cách chấm phá, điểm xuyết )
– Kiều ở lầu Ngưng Bích: Thiên nhiên đầy ám ảnh, thấp thỏm, đầy sự vần vũ, thảng thốt, rợn ngợp để đồng cảm cùng nàng Kiều bé nhỏ, trơ trọi, kinh hoàng, vô vọng trước biển.
+ Thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích (6 câu đầu) dưới tầm mắt của kiều không chỉ là bức tranh thiên nhiên rộng lớn, bao la, mênh mông hoang vắng đến rợn người mà còn là thế giới biết nói về tâm trạng rối bời ngổn ngang trăm mối tơ vò của nàng Kiều: cô đơn đau đớn nhục nhã đến ê chề của nàng khi vừa mới trải qua nỗi đau đầu đời do Mã Giám Sinh làm nhục
+ Thiên nhiên ở 8 câu cuối còn là nỗi buồn, lo sợ đến hãi hùng của nàng Kiều bởi mỗi hình ảnh thiên nhiên là một ẩn dụ cho tâm trạng số phận của nàng Kiều: “Cánh buồm xa xa” gợi cảnh đời lưu lạc, nỗi nhớ nhà sự cô đơn lẻ loi. Cảnh “hoa trôi man mác” gợi tâm trạng số phận vô định, cảnh “nội cỏ, chân mây, mặt đất” là sự rộng lớn của thiên nhiên hay còn là tâm trạng bi thương tương lai mờ mịt của nàng, cảnh “gió cuốn mặt duềnh” là sự hãi hùng về cuộc sống đang đe dọa bao quanh nàng cũng là tiếng kêu dự báo về quãng đời lưu lạc, tủi nhục, cay cực mà nàng phải trải qua mà đây mới là bước đầu Mỗi hình ảnh thiên nhiên mỗi từ ngữ đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng số phận nàng Kiều. Đó chính là thế giới biết nói thật sống động (tự liệt kê và phân tích các hình ảnh thiên nhiên kết hợp các biện pháp tu từ: điệp từ, nhân hóa và sử dụng từ láy).
→ Những bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều trở thành một thứ bút pháp (tả cảnh ngụ tình) để Nguyễn Du miêu tả và khắc họa số phận, tính cách và nhất là nội tâm nhân vật, khiến cho nhân vật của ông hiện lên thật sinh động, chân thực, đem đến sự đồng cảm sâu sắc.
3. Đánh giá, tổng hợp:
– Thiên nhiên trong Truyện Kiều vừa là đối tượng miêu tả vừa là phương tiện biểu hiện. Vì thế, có thể khẳng định rằng : Hình tượng thiên nhiên trong Truyện Kiều không chỉ là thế giới sống, mà còn là “thế giới biết nói”.
– Qua cách miêu tả thiên nhiên, Nguyễn Du cho thấy một tâm hồn thiết tha yêu sự sống, yêu tạo vật, một linh hồn “mang mang thiên cổ”, một sự nhạy cảm, tinh tế, tài hoa khác thường.
– Người cầm bút: Sử dụng thiên nhiên như một nét bút pháp đòi hỏi ở người nghệ sĩ phải có tâm hồn yêu thiên nhiên đằm thắm và sự tài hoa, tinh tế của ngòi bút.
– Người tiếp nhận: Sáng tác của Nguyễn Du đã dạy người đọc cách mở rộng lòng mình với tạo hóa, với cái đẹp, dạy chúng ta biết sống yêu đời.
- Kết bài:
– Thiên nhiên trong tác phẩm “Truyện Kiều” được Nguyễn Du miêu tả với những màu sắc khác nhau.Đồng thời chúng cũng giữ những vai trò khác nhau trong việc thể hiện cảm xúc, tâm trạng của các nhân vật.Đó là dụng ý của tác giả khi sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình đầy tinh tế và khéo léo.“Có thể nói thiên nhiên trong “Truyện Kiều”cũng là một nhân vật, một nhân vật thường lặng lẽ kín đáo nhưng không mấy khi không xuất hiện và luôn luôn thấm đượm tình người” (Đặng Thanh Lê).
Tài liệu tham khảo 1:
“Có thể nói thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật, một nhân vật thường kín đáo, lặng lẽ nhưng không mấy khi không có mặt và luôn đượm tình người” (Hoài Thanh). Chứng minh qua Truyện Kiều– Nguyền Du.
- Mở bài:
Thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay. Các tao nhân mặc khách, các thi sĩ xưa đến với thiên nhiên để hoà mình vào thiên nhiên, gửi gắm tâm tư tình cảm vào mỗi bức tranh ấy. Mỗi nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng thường tìm đến với người bạn thiên nhiên để soi lòn mình vào tấm gương trong sáng ấy. Không trọng tâm tả thiên nhiên cảnh vật nhưng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du , thiên nhiên trở thành một nhân vật nói hộ tác giả tâm trạng nhân vật. Hoài thanh đã có nhận xét thật đúng về thiên nhiên trong Truyện Kiều: “ Có thể nói thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật, một nhân vật thường kín đáo, lặng lẽ nhưng không mấy khi không có mặt và luôn đượm tình người”.
- Thân bài:
Khi nói thiên nhiên là một nhân vật, nhà phê bình văn học Hoài Thanh có lẽ muốn nói đến sự có mặt xuyên suốt, chân thực, sinh động và ấn tượng với bạn đoc như những gì Nguyễn Du xây dựng về con người . Điều đó nghĩa là, thiên nhiên không chỉ là cái bình phong , là hình thức để Nguyễn Du ngụ tình mà thiên nhiên là đối tượng thứ nhất có một vẻ đẹp tự thân, hiện lên chân thực, có hồn, thể hiện tình yêu, cái đẹp và tạo vật của thi hào Nguyễn Du. Nguyễn Du đã thể hiện tình yêu thắm thiết với thiên nhiên, tạo vật và qua thiên nhiên, thể hiện tình yêu thắm thiết với cuộc sống con người.
Có thể nói thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật, một nhân vật thường kín đáo. Thiên nhiên đó là một thế giới tuyệt đẹp, một thế giới sinh động với đủ màu sắc, đường nét và những âm thanh. Với một tâm hồn nghệ sĩ giàu sức rung động trước tạo vật quyện hoà dưới ngòi bút trữ tình đằm thắm, thiên tài Nguyễn Du đã để lại cho muôn đời những bóng dáng nên thơ của thiên nhiên trên những trang Kiều. Đọc Truyện Kiều ta được thả mình trong một thế giới tuyệt diệu, thưởng ngoạn và chiêm ngưỡng tất cả những vẻ đẹp tinh tuý của tạo vật. Mỗi chúng ta đều tìm thấy ở Truyện Kiều những nét đặc sắc mang cái “thần” của thiên nhiên :
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Một không gian đầy chất thơ, thi vị và hữu tình biết bao nhiêu, sự rộng lớn của đất trời khi mùa xuân về được diễn tả tinh tế và tràn ngập niềm vui . “cỏ non xanh tận chân trời” một màu xanh non, tươi mát của thảm cỏ trải bao la, sắc cỏ tháng ba là sắc xanh non, tơ nõn, mềm mượt êm ái. Trên nền xanh tươi trong trẻo ấy điểm xuyến sắc trắng của vài bông hoa lê. Màu xanh của cỏ, màu trắng của hoa lê hài hoà tuyệt diệu, gợi cảm giác dịu dàng, mát mẻ đặc trưng của mùa xuân.
Khi Thuý Kiều bị đẩy vào lầu Ngưng Bích, trong con mắt nàng, thiên nhiên thật đượm buồn:
“Buồn trông cửa bề chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mấy mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Thiên nhiên hiện hữu trước mắt ta có chân mây mặt biển, có cánh buồm ngoài khơi xa, có tiếng sóng, có nội cỏ dầu dầu, những cánh hoa man mác. Nhưng đó là bức tranh thiên nhiên bát ngát, hoang vắng, đượm buồn nơi lầu ngưng bích .
Thiên nhiên càng trở nên hữu tình, thơ mộng khi Kiều chia tay với Kim Trọng :
“Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”
Nguyễn Du không cần giá vẽ nhưng đã dựng nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp và hài hoà. Dưới cầu là dòng nước êm đềm chảy, bên cầu là hình ảnh “tơ liễu bóng chiều thiết tha” . Cảnh vật gắn bó, tôn nhau lên, chiếc cầu nhỏ như làm đẹp cho dòng nước và dòng nước làm cho chiếc cầu càng trở nên xinh xắn đáng yêu hơn.
Đó còn là cảnh thu đã nhuốm màu quan san khi Thuý Kiều chia tay Thúc Sinh: “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”. Một bức tranh thiên nhiên bao la, bát ngát với “rừng phong thu”. Cả một miền quan san – cửa ải núi non trùng điệp bỗng chốc nhuốm bởi màu sắc đỏ ối của rừng phong. Đây không phải là nơi quan ải thế nhưng lứa đôi chia tay thì cả rừng phong như nhuốm màu biệt li cách trở. Giữa hai người là một vùng quan san hiện ra ảm đạm, hoang biệt, buồn thấm thía .
Đọc Truyện Kiều, ta nhớ mãi bức tranh tứ bình về trăng, hoa, gió, tuyết :
“Đòi phen gió tựa, hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu”
Ta quên sao được sự chuyển vần của bốn mùa trong nỗi đau nặng trĩu lòng người :
“Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn, đông đà sang xuân”.
Thiên nhiên trong Truyện Kiều rất đỗi quen thuộc với tâm hồn con người Việt Nam. Nhà thơ như một hoạ sĩ tài ba , phối sắc tạo hình, dựng cảnh … đều đem đến cho người đọc nhiều rung cảm. Mùa xuân với :
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Mùa hè với tiếng chim quyên và hoa lựu đỏ :
“ Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông”
Khác với các nhà thơ miêu tả mùa hè với những ánh nắng vàng rực rỡ, tiếng ve sầu tái tê, hoa phượng đỏ rực trời, bức hoạ mùa hè trong thơ Nguyên Du hiện ra trong đêm dưới ánh trăng vàng, âm thanh réo rắt gọi mùa. Cái rực rỡ của ánh mặt trời được thay bằng gam màu của lựu, như đang phun ra từng luồng ánh sáng rõ, mờ, biến hoá, sống động thần tiên. Thiên nhiên như khiêu gợi con người đi tìm cái đẹp vốn có của thiên nhiên và của chính con người.
Mùa hạ rực rỡ sắc màu của lựu, rộn ràng bởi tiếng chim kêu, mùa thu trong Truyện Kiều lại thơ mộng hữu tình và thi vị biết bao :
“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”
Từ “long lanh” mở đầu hai câu thơ đã hé mở một không gian lung linh, huyền ảo của bóng nước. Bức tranh mùa thu ở đây có một vẻ đẹp lồng kết, hoà quyện của ánh sáng, hình ảnh, hoà cùng sắc màu soi chiếu lẫn nhau đã thể hiện sự trong xanh của nước và gợi tả cả chiều cao, sự rộng lớn của đất trời .
Những hình ảnh “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” , những nhánh liễu mềm “lơ thơ tơ liễu buông mành” những con đường “lối mòn cỏ nhợt màu sương” .. ta vẫn thấy quanh ta, thân thiết, gần gũi.
Qua cách miêu tả thiên nhiên, Nguyễn Du cho thấy một tâm hồn thiết tha, yêu sự sống, yêu tạo vật, một linh hồn “mang thiên cổ”, một sự nhạy cảm tinh tế, tài hoa, khác thường. Sáng tác của Nguyễn Du đã dạy người đọc cách mở rộng lòng mình với tạo hoá, với cái đẹp, dạy chúng ta biết sống yêu đời.
Nguyễn Du đã từng nói :
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Thiên nhiên trong Truyện Kiều không chỉ là cái nền, cái khung cảnh cho nhân vật mà òn thể hiện tình cảm của ông với con người, thế nên thiên nhiên ấy thắm đượm tình người.
Tả cảnh ngụ tình là một trong những phương pháp quen thuộc và hiệu quả của các nhà văn, nhà thơ từ xưa đến nay. Những bức tranh thiên nhiên trong Truyện Kiều đã trở thành một bút pháp để Nguyễn Du miêu tả, khắc hoạ số phận, tính cách nhất là nội tâm nhân vật, khiến cho nhân vật của ông hiện lên thật sinh động, chân thực, đem đến sự đồng cảm sâu sắc.
Bức tranh mùa xuân là xúc cảm đẹp của nội tâm hai nàng Kiều và cũng là ước mơ , khát vọng của Nguyễn Du về tuổi trẻ, hạnh phúc, sự bình an. Đó còn là nỗi buồn tan cuộc , cõi lòng vấn vương … một cách đặc biệt gợi cảm, thấm thía :
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
“Tà tà” với hình ảnh trời chiều gọi ra nhịp vận động chậm rãi, từ từ như muốn níu giữ lại một chút khoảnh khắc tươi đẹp của ngày xuân trước khi chìm hẳn vào bóng đêm. Có lẽ hình ảnh bóng chiều tà này cũng đồng điệu với tâm trạng của chị em Thuý Kiều khi trở về từ lễ hội mùa xuân. Từ “nao nao” trong câu thơ diễn tả thế chảy của dòng nước nhưng cũng đồng thời diễn tả nỗi bâng khuâng, luyến tiếc như có một linh cảm điều gì đó sắp xảy ra đó là cảnh và người sẽ gặp: nấm mồ Đạm Tiên, chàng thư sinh “phong tư tài mạo tót vời” – Kim Trọng. Sáu câu thơ được coi là đoạn thơ hay, tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh ngụ tình của đại thi hào Nguyễn Du.
Trong Truyện Kiều, thiên nhiên cũng là một nhân vật trữ tình. Mỗi lần thiên nhiên xuất hiện, câu thơ lại trở nên lung linh giúp cho nhân vật trữ tình bộc lộ tâm trạng của mình :
“Buồn trông cửa bề chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mấy mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Nỗi buồn trong Kiều thật mênh mang, rợn ngợp, một nỗi buồn khiến lòng người khô héo. ‘Nội cỏ’ ở đây cũng ‘rầu rầu’ , cũng mang tâm sự nỗi lòng của Kiều. Đó là nỗi buồn vì cuộc đời đang bị xô đẩy, vùi dập. Nỗi buồn đó cứ ngày càng tăng, càng ngày càng chất ngất, khơi gợi nỗi niềm tủi nhục đau thương đến ứa nước mắt. Tầm nhìn của Kiều hướng từ xa đến gần, từ cao đến thấp, mong mỏi kiếm tìm một sự đáp vọng nhưng âm thanh duy nhất đáp lại nàng là tiếng sóng ầm ầm, nó không làm cho không gian vang động hơn mà càng khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn lẫn dự cảm lo âu về tương lai của Kiều.
Cảnh ở đây mênh mang, rợn ngợp mang tâm sự u hoài của lòng người. Nguyễn Du đã dành cho thiên nhiên một tình yêu nồng hậu với tất cả trái tim đa cảm của người nghệ sĩ thiên tài, tình người ẩn sau trong cảnh vật. Đó là cảnh Kim Trọng sau khi hộ tang về tìm lại Kiều, nhưng người xưa nay còn thấy đâu, chỉ còn cảnh vườn hoang cỏ dại, lạnh lùng dưới ánh trăng :
“Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ , vách mưa rã rời”
Lần thứ hai Kim Trọng tìm về nhà Vương Viên ngoại để hỏi thăm Kiều thì bấy giờ cảnh vật nhà thật khác, sân ngoài cỏ hoang mọc dại, ướt đầm dưới cơn mưa, tiêu điều như nỗi buồn tênh trong lòng chàng :
“Một sân đất cỏ dầm mưa
Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn dường”
Thiên nhiên có mặt , trở thành bút pháp, đã góp phần thể hiện sâu sắc âm vang những suy nghĩ của Nguyễn Du về con người. Sử dụng thiên nhiên như một nét bút pháp đòi hỏi ở Nguyễn Du tâm hồn yêu thiên nhiên đằm thắm và sự tài hoa, tinh tế của ngòi bút. Ngòi bút của Nguyễn Du đã trở thành đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong nền thơ ca dân tộc.
- Kết bài:
Có thể nói thiên nhiên luôn là hình ảnh thật gần, gắn bó với mỗi chúng ta, nó không chỉ là khung cảnh gần gũi trong cuộc sống đơi thường mà đi vào văn học, cụ thể vào Truyện Kiều. Nguyễn Du đã mượn thiên nhiên làm nền cho truyện và cũng biến thiên nhiên thành 1 nhân vật mang tâm sự, nỗi lòng của con người. Ngòi bút thơ của Nguyễn Du tài hoa, điêu luyện khi dựng lên hình ảnh thiên nhiên. Thiên nhiên mãi là hình ảnh, là nhân vật không thể thiếu trong Truyện Kiều. Đúng như Hoài Thanh đã nói : ‘Thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật, một nhân vật thường kín đáo, lặng lẽ nhưng không mấy khi không có mặt và luôn luôn thấm đượm tình người’
Tài liệu tham khảo 2:
Nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
- Mở bài:
Nếu nói rằng Văn học là một bộ môn nghệ thuật có chất liệu sáng tạo là ngôn từ phản ánh đời sống tự nhiên, xã hội bằng cách xây dựng các hình tượng nghệ thuật đặc sắc (thẩm mĩ) để hướng tới trọng tâm là con người thì truyện Kiều đã đạt tới đỉnh cao của sự thành công về điều đó. Có thể nói đã bao thế hệ trôi qua mà người đọc vẫn không khỏi nghẹn ngào xúc động mỗi khi lật dở lại từng trang Kiều. 3254 câu Kiều đã được Nguyễn Du chưng cất từ những giọt huyết lệ nóng hỗi tình yêu thương con người, làm lay động thổn thức trái tim của bao thế hệ. Truyện Kiều là tác phẩm văn chương tuyệt tác trong lịch sử văn học dân tộc,có giá trị về mọi mặt: tư tưởng, triết lí, luân lí, tâm lí và văn chương Truyện kiều chiếm một vị trí vô cùng quan trọng đời sống nhân dân Việt Nam: từ các bậc cao sang quyền quý, trí thức, khoa bảng, văn nhân thi sĩ, cho đến những người bình dân ít học, ai cũng biết đến Truyện Kiều. Họ thích đọc Kiều, ngâm Kiều, lẩy Kiều và thậm chí bói Kiều. Truyện Kiều là tác phẩm đã đưa một nhà thơ lên hàng danh nhân văn hoá thế giới. bởi giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật đạt tới đỉnh cao. Về giá trị nội dung: “Truyện Kiều” có hai giá trị lớn: giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo…
Về giá trị nghệ thuật “Truyện Kiều” rất phong phú, song đặc sắc nhất là ở hai phương diện chủ yếu:
– Nghệ thuật ngôn ngữ: ngôn ngữ “Truyện Kiều” đạt đến mức trong sáng mẫu mực. Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn hai tác phẩm ngôn ngữ: ngôn ngữ bình dân – ngôn ngữ ca dao, tục ngữ lời ăn tiếng nói của người dân; ngôn ngữ bác học mà chủ yếu là những lời Hán Việt mang đến cho “Truyện Kiều” thứ ngôn ngữ vừa hàm súc, vừa trang nhã, vừa giản dị mà vẫn đẹp đẽ, giàu hình ảnh nhạc điệu. Vì thế người ta gọi “Truyện Kiều” là “ tòa lâu đài ngôn ngữ thơ ca” được kết lên từ những viên ngọc lấp lánh sáng trong.
– Nghệ thuật miêu tả và xây dựng nhân vật: ở lĩnh vực này Nguyễn Du thành công ở tất cả các bút pháp (tả cảnh, tả tình, tả người). Ông được mệnh danh là một thiên tài bậc thầy của nền văn học dân tộc.Ở bài viêt này tôi xin được phép trình bày một khía cạnh nhỏ trong suy nghĩ của mình khi tìm hiểu Truyện Kiều, đó là: Khai thác một vài nét về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du nói chung rất đa dạng và phong phú. Chính nghệ thuật tả cảnh này đã làm tăng rất nhiều thi vị và giá trị cho Truyện Kiều. Nghệ thuật tả thiên nhiên của Nguyễn Du tuyệt vời đến nỗi giáo sư Nghiêm Toàn đã có nhận định như sau: “ Trong Đoạn trường tân thanh luôn luôn có những bức tranh nho nhỏ như những hạt kim cương rải rác đính trên một tấm thêu nhung” (Việt Nam Văn học sử trích yếu).
– Lối tả trực tiếp (tả chân) đây là cách tả thực, tả thuần tuý với những bức hoạ xinh đẹp, tươi tắn hoặc có khi buồn hiu hắt nhưng không ngụ tình, được viết theo lối văn tinh xảo, chỉ cần một vài nét phác hoạ với những điểm chính hiện hữu.
Hãy xem một cảnh xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút miêu tả thiên nhiên trực tiếp : “Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.” (Cảnh ngày xuân ) Bốn câu thơ trên Nguyễn Du đã mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, nên thơ. Giữa bầu trời bao la, mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như thoi đưa. Cánh én ngày xuân thân mật biết bao. Hai chữ “đưa thoi” rất gợi hình, gợi cảm. Nhà thơ miêu tả cánh én như con thoi vót qua, vót lại chao liệng như muốn nói thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh, ngày vui trôi rất nhanh. Sau cánh én “đưa thoi” là ánh xuân, là “thiều quang” của mùa xuân khi mùa xuân đã bước sang tháng thứ ba. Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của các thi nhân xưa nay thật là hay và ý vị. Trong thơ cổ, nào là “ xuân hướng lão”, “xuân đã muộn” (Nguyễn Trãi). Sau này, trong các tác phẩm hiện đại của các thi nhân lãng mạn cũng đã xuất hiện nhiều hình ảnh thời gian nghệ thuật: Xuân Diệu có “ xuân hồng”, Hàn Mặc Tử có “ mùa xuân chín”, Nguyễn Bính có “ xuân xanh”. Với Nguyễn Du thì “thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” lúc này là cuối xuân, gợi cái đậm của sức xuân. ánh sáng của mùa xuân rực rỡ, ấm áp làm cho bức tranh mùa xuân thêm trong trẻo, tươi sáng. Nếu hai câu thơ trên là thời gian, không gian xuân thoáng đạt, thì hai câu dưới là bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân: Cá non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo: “Phương thảo liên thiên bích. Lê chi sổ điểm hoa”.
Hai chữ “trắng điểm” là “nhãn tự”, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp trong sáng tinh khôi của thiên nhiên cỏ hoa. Bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: thảm cỏ xanh m¬ướt bao la, trải rộng tới chân trời là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng tinh. Chỉ có hai màu xanh và trắng như nỗi thanh khiết của tâm hồn chị em Thúy Kiều đi dự lễ thanh minh. ở đây, cũng cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. Thay vì “Cành lê điểm một vài bông hoa trắng” thì Nguyễn Du đã viết: “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Có thể Nguyễn Du phải đảo chữ vì tôn trọng luật bằng, trắc trong thơ lục bát, nhưng phải công nhận đó là một lối đảo chữ tài tình mà không phải ai cũng làm được. Thật là một bức tranh màu sắc thanh nhã, hài hòa đến tuyệt diệu. Chỉ bằng hai mươi tư tiếng, Nguyễn Du đã phác họa lên trước mắt người đọc bức tranh mùa xuân có cả chiều cao, chiều rộng, mới mẻ, giàu sức sống. Đây là bức tranh xuân hoa lệ, là những vần thơ tuyệt bút mà Nguyễn Du trao tặng cho đời.
Với lối tả chân này, Nguyễn Du còn điểm trang cho Truyện Kiều nhiều bức tranh thật tươi tắn, sống động. Hãy xem cảnh bóng trăng chênh chếch, soi mình trên sóng nước, đẹp lãng đãng như nổi tưởng nhớ miên man của Kiều về Kim Trọng sau buổi gặp gỡ đầu tiên. Chỉ vài nét đơn sơ, giữa trăng, nước và sân nhà đủ diễn tả một khung cảnh tuyệt nhã, đẹp như một bức tranh.
“Gương nga chênh chếch dòm song
Vầng trăng ngấn nước, cây lồng bóng sân”
Và đây là một bức tranh sơn thuỷ tuyệt đẹp giữa một khung trời chiều mà Nguyễn Du đã gửi vào trong con mắt ngắm cảnh của Thúc Sinh
“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng”.
Mặc dù lúc này Thúc Sinh đang trên đường trở lại Lâm Tri, lòng mừng khấp khởi. Anh ta có dè đâu giữa cảnh trời thu tuyệt vời ấy những phong ba dữ dội ấy đang ùn ùn nổi dậy. Những lời thơ ấy đã đủ nói lên sức chân thực lớn của ngòi bút Nguyễn Du
– Tả cảnh ngụ tình: Với bút pháp này, đại thi hào Nguyễn Du được coi là điêu luyện, tuyệt bút. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của ông được người đời sau khen ngợi như “máu chảy ở đầu ngọn bút” và “thấu nghìn đời”. Trong Truyện Kiều, cảnh vật bao giờ cũng bao hàm nỗi niềm tâm sự của nhân vật ẩn chứa trong đó ”Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” Nguyễn Du miêu tả cảnh chị em Thúy Kiều đi du xuân trở về khi chiều vừa ngả bóng hoàng hôn: “Tà tà bóng ngả về tây, Chị em thơ thẩn dan tay ra về. Bước lần theo ngọn tiểu khê, Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh. Nao nao dòng nước uốn quanh, Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”. Nguyễn Du đã sử dụng lối dùng chữ trang nhã, bình dân trong tả cảnh. Bức tranh không còn tươi rói, tinh khôi nữa mà cảnh được nhân hóa một cách tự nhiên nên dường như nhuốm màu tâm trạng. Hai chữ “tà tà” chỉ một hành động chậm rãi, có thể là chị em Thúy Kiều thong thả bước chân ra về “thơ thẩn” không có gì là vội vã, mà cũng có thể chỉ sự xuống chầm chậm của mặt trời chiều. Cảnh chuyển động nhẹ nhàng, thanh dịu. Chúng được đặt dưới góc nhìn khác nhau, một thời điểm khác, nên giữa cảnh và tình có sự giao hòa đồng điệu.
“Nao nao” là từ láy diễn tả tâm trạng con người nhưng ở đây, Nguyễn Du lại dùng để chỉ dòng nước: “nao nao dòng nước uốn quanh”. Cảm giác về một ngày vui đang còn mà đã linh cảm thấy một điều gì đó không bình thường sắp xuất hiện, như dự báo về cảnh và người sắp gặp: nấm mộ Đạm Tiên và chàng Kim Trọng mà đây là những nốt nhạc dạo đầu. Các từ láy: tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ có giá trị gợi hình, gợi cảm cao. Cảnh được Nguyễn Du nhìn nhận qua tâm trạng xao xuyến, bâng khuâng, man mác một nỗi buồn vô cớ của chị em Thúy Kiều trên đường trở về sau một ngày du xuân.
Và đây là cảnh chiêu tà Kim-Kiều gặp nhau. Con đường mà Kim Trọng đã bước qua hiện lên trong mắt Thuý Kiều thật đẹp, thật nên thơ, nên nhạc, cảnh cứ quấn quýt hoà quyện như trái tim hai người đang rạo rực bâng khuâng “Hài văn lần bước dặm xanh / Một vùng như thể cây quỳnh cành dao”. Vẫn là cảnh chiều tà nhưng khi Thuý Kiều nhỏ giọt nước mắt xuống ngôi mộ Đạm Tiên một kỉ nữ “Đến khi thác xuống làm ma không chồng” thì cảnh vật trở nên thê lương, ảm đạm “Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng, nửa xanh“. Vầng trăng là hình ảnh tuyệt đẹp của thiên nhiên, trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã nhiều lần miêu tả vầng trăng nhưng ở mỗi thời điểm, mỗi hoàn cảnh khác nhau của nhân vật, vầng trăng lại được miêu tả trong mối giao hoà với tâm hồn con người. Trong đêm Kim -Kiều thề thốt vầng trăng cũng toả sáng lung linh như mối tình trong trắng, thánh thiện của họ” Vầng trăng chứng kiến một cuộc tình đang lên men say nồng:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt, một lời song song”
Vầng trăng đã từng chứng kiến mối tình đẹp để rồi giờ đây vầng trăng ấy lại quặn đau, xót xa như vỡ ra từng mảnh trước cảnh kiều và Thúc Sinh chia tay:
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”
Và đây là cảnh một đêm thu có trăng sáng nhưng ánh trăng mờ nhạt lạnh lẽo như tâm sự rối bời, nổi niềm sợ hãi, cô đơn của Kiều khi nàng theo Sở Khanh để trốn Tú Bà:
“Lối mòn có nhạt màu sương
Lòng quê đi một bước đường một đau”
Nhiều khi, Nguyễn Du phô diễn lối tả cảnh tượng trưng. Nghĩa là chỉ bằng một vài nét chấm phá, thành nghệ thuật đã đạt đến mức uyển chuyển, tinh tế. Điều đó đã được thể hiện rõ nét trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”: “ Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung. Bốn bề bát ngát xa trông, Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng “Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung”. Hình ảnh thơ đã được Nguyễn Du miêu tả trái với quy luật tự nhiên, thực ra “non” phải ở gần “trăng” phải ở xa. Tuy nhiên, lại phù hợp với quy luật của cảm giác, vì những gì phát sáng ta cảm thấy nó ở gần hơn. Đó chính là sự cảm nhận tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, là tài năng miêu tả thiên tài của Nguyễn Du. Kiều nhìn xung quanh, bốn bề bát ngát, mênh mông, trải dài ngót tầm mắt, với những “cát vàng”, “bụi hồng”, kéo dài ngàn dặm xa. Trong cảnh có màu vàng của trăng, của cát, màu xanh của nói, của biển, của trời, màu hồng của bụi. Cảnh trước lầu Ngưng Bích đẹp như một bức tranh sơn mài diễm lệ. Có mảng sáng, mảng tối, có cao, có thấp, các gam màu nóng tạo cho bức tranh phong cảnh đẹp rực rỡ. Tuy nhiên, qua các chỉ từ “nọ”, “kia” chỉ vị trí không gian không xác định, và các tính từ “xa”, “gần”chỉ khoảng cách giữa các vật. Ta thấy cảnh vật tuy đẹp nhưng không quần tụ, tách rời nhau , ngổn ngang như nỗi ngổn ngang trăm mối tơ vò trong lòng của cô gái họ Vương.
Trước lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều cảm thấy “bẽ bàng”, tủi hổ mỗi khi ngắm nhìn “mây sớm”, hay khi ngồi bên ngọn “đèn khuya”. Cảnh thiên nhiên đẹp nhưng Thúy Kiều không có tâm trạng nào để ngắm cảnh. Cho nên “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” là như vậy. Nhìn chung, cảnh thiên nhiên mênh mông, vắng lặng, trơ trọi, rợn ngợp ở lầu Ngưng Bích là để làm nổi bật tâm trạng, nỗi buồn, niềm cô đơn sầu tủi của nàng Kiều. Chính Nguyễn Du đã từng thú nhận sự chủ quan của mình trong lúc tả cảnh qua câu thơ: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” Cái tài của Nguyễn Du khi tả cảnh đó là tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa cảnh và người. Giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một mà hai. Tám câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là tám câu thơ tuyệt bút đặc sắc cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của nguyễn Du Nó không chỉ là bức tranh ngoại cảnh mà còn là một bức tranh tâm cảnh. Mỗi cảnh vật là một tâm trạng khác nhau của Kiều:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
Nhìn ra phía xa xa nơi “cửa bể chiều hôm”, nàng cảm thấy nhớ quê hương, nhớ nhà da diết. Không biết đến bao giờ nàng mới được trở về quê hương yêu dấu, nơi có bao người thân của nàng. Nguyễn Du đã vận dụng thời gian nghệ thuật trong văn thơ cổ, “chiều hôm” đó là buổi chiều tà, lúc hoàng hôn buông xuống, thời gian này thường gợi lên ý niệm nhớ nhung, hoài niệm hoặc tàn tạ, thê lương. Chúng ta đã từng gặp thời gian nghệ thuật ấy trong ca dao: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”
Cùng thời với Nguyễn Du, bà huyện Thanh Quan chỉ để lại khoảng sáu bài thơ nhưng trong đó có tới ba bài bà miêu tả thiên nhiên vào lúc chiều tà phù hợp với tâm trạng cô đơn nhớ nhà, thương nước, lẻ loi của bà như: “bóng tịch dương” (Thăng Long thành hoài cổ); “bóng xế tà” (Qua Đèo Ngang); “bóng hoàng hôn” (Chiều hôm nhớ nhà). Đã hơn một lần Nguyễn Du sử dụng mô típ này như: “tà tà” trong (Tà tà bóng ngả về tây- Cảnh ngày xuân) để miêu tả tâm trạng bâng khuâng, nuối tiếc của chị em Thúy Kiều khi đi du xuân trở về.
Trong bức tranh thứ nhất này, có thuyền, có người nhưng thuyền chỉ ở “thấp thoáng” nơi “xa xa”, không ở gần để xẻ chia tâm sự với nàng. Nhìn lên “ngọn nước mới sa” cánh hoa trôi nổi trên dòng nước, không biết sẽ về đâu. Thúy Kiều liên tưởng đến số phận của nàng sau này không biết sẽ thế nào. Thành ngữ “bèo dạt mây trôi” được Nguyễn Du vận dụng rất khéo léo, sáng tạo làm tăng ấn tượng về sự long đong, vô định của sự vật được miêu tả. Ở đây là của Thúy Kiều hay là số phận chung của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến x¬a. Nhìn xuống mặt đất, nơi “nội cỏ dầu dầu”. Nội cỏ chứa đầy tâm trạng. Không phải là: “cỏ xanh như khói bến xuân tươi” (Nguyễn Trãi); cũng không phải là: “Sóng cỏ xanh tươi gợn đến trời” (Hàn Mặc Tư). Nguyễn Du rất tài hoa khi miêu tả sự vật này. Trong mỗi cảnh, mỗi tình thì ngọn cỏ lại khác nhau: khi chị em Thúy Kiều náo nức đi chơi xuân thì “Cỏ non xanh tận chân trời”; khi gặp mé Đạm Tiên – một cô ca kĩ “hồng nhan bạc mệnh” thì ngọn cỏ lại “nửa vàng, nửa xanh”. Còn ở đây thì ngọn cỏ lại “dầu dầu” trải dài đến tận chân trời, tạo cảm giác rợn ngợp, tăng thêm sự lạnh lẽo, nhỏ bé, hiu quạnh và cô đơn của Thúy Kiều nơi đất khách quê người. Cảnh chứa đựng một nỗi buồn vô vọng. chất chứa thành khối thấm đẫm vào cỏ cây mây nước” Chân mây mật đất một màu xanh”. Đây đâu phải là màu xanh của sự sống căng tràn của niềm hy vọng. Trong “Chinh phụ ngâm”, nhà thơ Đoàn Thị Điểm cũng đã từng tả màu xanh của ngàn dâu” Ngàn dâu xanh ngắt một màu” để diễn tả nỗi sâù chia ly của người chinh phụ trong mặc cảm cô đơn thăng hoa . ..
Điệp ngữ liên hoàn “buồn trông” được điệp lại bốn lần ở đầu các câu lục, nhằm nhấn mạnh nỗi buồn nhiều vẻ của Thúy Kiều. Bốn cảnh vật là bốn nỗi buồn khác nhau của nàng. Nỗi buồn bủa vây tứ phía không cho nàng lối thoát: nhìn ra xa nơi cửa bể; nhìn lên trên nơi ngọn nước mới sa; nhìn xuống dưới nơi nội cỏ dầu dầu; nhìn xung quanh với ầm ầm tiếng sóng kêu. Nguyễn Du đã theo sát từng bước chân của Kiều. Ông đã nhìn cảnh vật bằng lăng kính tâm trạng của Kiều, và phủ lên cảnh vật bằng chính tâm trạng của Kiều với những lời văn viết ra như máu chảy đầu ngọn bút. Chính vì vậy, ông đã được mệnh danh là nghệ sĩ bậc thầy về miêu tả thiên nhiên và tâm lí nhân vật. Ông đã dành cho nhân vật của mình sự cảm thông sâu sắc.
Tóm lại, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật phong phú, sinh động. Nghệ thuật ấy chẳng khác gì vẽ một bức tranh thủy mặc, nhiều khi chỉ một ánh hoàng hôn, một ánh trăng, một thảm cỏ, một bông hoa, một dòng nước chảy…cũng thành nhạc, thành thơ. Sự hòa phối màu sắc và cách sắp xếp cảnh vật gần – xa thật tài tình đã đủ lôi cuốn tâm hồn người đọc hòa chung vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi là Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên nhiên nên đã thổi vào thiên nhiên một “hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh thiên nhiên của ông mà không bồi hồi tấc dạ. Giá trị văn chương tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt tới mức tinh diệu. Chỉ riêng lĩnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ để Truyện Kiều xứng đáng là một tác phẩm văn chương hay nhất trong kho tàng văn học nước nhà.
- Kết bài:
Học giả Đào Duy Anh nhận xét về “Truyện Kiều”: “Chúng ta sở dĩ yêu chuộng Truyện Kiều không phải nó có thể làm quyển sách luân lí cho đời, mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn Du đã dùng những lời văn kì diệu để làm rung động hồn ta” (Khảo luận về Kim Vân Kiều). Đúng vậy những rung động trong tâm hồn được khơi dậy khi đọc truyện Kiều hẳn là một điều không ai trong chúng ta có thể phủ nhận bởi vì chúng ta đã có những cảm giác ấy. Truyện Kiều vì thế sống mãi với thời gian, và cũng sẽ mãi mãi là một niềm say mê lớn.