nghi-luan-trong-truyen-ngan-vo-nhat-nha-van-kim-lan-da-xay-dung-duoc-mot-tinh-huong-bat-thuong-de-noi-len-khat-vong-binh-thuong-ma-chinh-dang-cua-con-nguoi

Nghị luận: Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một tình huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con người

Có ý kiến cho rằng “Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một tình huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con người”. Từ việc phân tích tình huống truyện của tác phẩm Vợ nhặt, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.


  • Mở bài:

Kim Lân thuộc một trong số ít các nhà văn viết ít nhưng thành công lớn. Tác phẩm “Vợ nhặt” được xem là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của nền văn học hiện thực phê phán thể kỉ XX. Nhận xét về giá trị của “Vợ nhặt”, có ý kiến cho rằng: “Trong truyện ngắn Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một tình huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con người”.

  • Thân bài:

Truyện kể về chuyện lấy vợ của nhan vật Tràng và cuộc sống hiu hắt, đói khát nhưng ấm áp tình người ở xóm ngụ cư. Trong lúc xóm ngụ cư xơ xác, tiêu điều trong nạn đói đầu năm 1945, vào một buổi chiều tà, Tràng – một người nông dân nghèo, luống tuổi, thô kệch, lại dở hơi – dẫn về nhà một người phụ nữ . Đó là một cô gái đang lâm cảnh ngộ đói rách cùng đường. Mẹ Tràng (bà cụ Tứ) đón nhận người con dâu trong tâm trạng vừa buồn vừa mừng, vừa lo âu, vừa hi vọng nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình. Thật bất ngờ, chính người vợ “nhặt” đã mang đến cho ngôi nhà một sinh khí mới, một cuộc sống mới mà không ai ngờ tới, làm hồi sinh niềm vui và sự hi vọng ở tương lai.

Đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Bên cạnh đó, từ tình huống truyện, các sự kiện, biến cố của cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được bộc lộ. Việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong tình huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả năng quan sát, khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn.

Tình huống truyện trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân được xây dựng dựa trên những cái bất thường. Ngay trong lúc đói khát cùng cực, cái chết cận kề mà lại có kẻ lấy vợ; kẻ không có cơ hội lấy vợ lại cưới được vợ; những kẻ khốn cùng biết nương tựa vào nhau lại tạo ra sự sống mới chính là tình huống độc đáo, bất thường của câu chuyện này. Đó khát vọng bình thường mà chính đáng của con người. Kim Lan với tình huống truyện bất thường ấy cứ dẫn dắt người đọc hết bất ngờ này đến bất ngờ khác.

Tình huống bất thường có thể xem là một sự việc diễn ra trong một hoàn cảnh cụ thể nhưng không thường xuyên xuất hiện trong đời sống. Khát vọng bình thường mà chính đáng là những mơ ước, mong muốn và dễ dàng đạt được. Đó là cái mọi người đều hướng tới. Câu nói có ý nghĩa ca ngợi tài năng của nhà văn Kim Lân trong việc xây dựng được một tình huống truyện độc đáo: xây dựng cái bất thường trong cái bình thường.

Tình huống truyện Vợ nhặt có tính bất thường và độc đáo vì tạo ra sự ngạc nhiên cho mọi người. Đã từ lâu, dân làng cái xóm ngụ cư này đã quá quen với hình ảnh vập vạp, thô kệch của Tràng với cái cười “hềnh hệch” vô hồn lúc nào cũng nở trên môi, Tràng nghèo túng, xấu xí hơn cả những con người tồi tàn, bèo bọt ở cái xóm làng thì làm gì có thể lấy được vợ? Thế nhưng hôm nay, bên cạnh cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn lại có cả một người đàn bà rón rén và e thẹn. Điều đó gợi nên sự kinh ngạc cho cả xóm.

Sự tò mò, xoi mói cứ lan dần theo từng bước đi của Tràng và người đàn bà trên con đường xao xác, heo hút. Mọi người cứ xì xầm bàn tán “Ai đấy nhỉ ! Hay là người nhà bà cụ Tứ mới lên?” “Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu?” thỉnh thoảng lại “rung rúc” vang lên tiếng cười đầy ghê rợn như tiếng cú báo hiệu tai ương và chết chóc vọng mãi theo đôi uyên ương về cuối xóm. Mặc cho những lời bàn tán, Tràng vẫn lầm lũi bước dưới những gốc gạo sù sì có “bóng những người đói đi lặng lẽ như những bóng ma thay cho khách” và tiếng quạ gào lên thê thiết từng hồi thay cho pháo cưới.

Câu chuyện chìm trong nặng nề và sợ hãi, đầy những cảnh ma quái, đen tối. Cái đói đã luồn những làn gió chết chóc mọi nơi. Vậy mà Tràng lại có vợ “Ôi chao! Biết có nuôi nổi nhau qua được cái thời này không”. Tình huống Tràng có vợ gây ra ấn tượng rất mạnh. Cả xóm ngạc nhiên đã đành, mà ngay cả bà cụ Tứ, mẹ Tràng cũng rất ngạc nhiên. Làm sao kể xiết sự sững sờ của bà khi trông thấy người đàn bà đứng ở đầu giường của con mình, lại còn chào mình bằng u nữa. Bà không thể nghĩ rằng con mình lại có vợ, ngay trong cái thời buổi đói kém này. Bà cứ hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn mà càng lúc nó cứ nhoèn mãi ra.

Tình huống càng bất ngờ đến hài hước khi chính Tràng cũng vẫn còn “ngỡ ngàng”. “Ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải. Ra hắn đã có vợ đấy ư?”. Mọi chuyện xảy ra quá bất ngờ, dường như chỉ là cơn mơ. Người đàn bà chỉ gặp mới hai lần lại trở thành vợ hắn. Mà thật ra, hắn cũng không có ý định gì với thị…Thị liều lĩnh đến với hắn chỉ bằng một câu nói suông. Thị theo hắn như phó mặc cho số phận. Cái đói đã đẩy họ đến với nhau.

Tình huống truyện bất thường và độc đáo bởi vì nó thật éo le, ngang trái. Xóm ngụ cư ai cũng lo âu cho hạnh phúc bấp bênh sắp tới của vợ chồng Tràng. Bà cụ Tứ cũng thể hiện nỗi lo âu kéo dài và ám ảnh, nghẹn ngào dàn dụa nước mắt. Chính Tràng cũng chợn và lo lắng cho tương lai của mình. Người “vợ nhặt” có chồng trong tâm trạng lo lắng, phấp phỏng, chua xót vì chỉ là “vợ nhặt, vợ theo, cái của nợ đời”.

Cái đói mang đến sự chết chóc, tang thương khắp mọi nơi và cũng chính nó làm những giá trị con người bị hạ xuống mức thấp nhất. Con người dường như mất hẳn tính người, chỉ còn sống theo bản năng để được ăn, được sống. Cơn đói khát làm cho người đàn bà quên cả sĩ diện, được mời ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên” tức thì, thế rồi “thị sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”.

Đoạn văn làm cho bất cứ ai có lương tâm cũng phải xấu hổ, phải quay mặt đi để cười ra nước mắt. Thì làm ta liên tưởng đến bà lão trong Một bữa no của Nam Cao. Con người trở nên trơ trẽn, mất nhân cách khi cái đói lởn vởn trong tâm trí. Giận thị nhưng ta vẫn xót xa trước dáng hình tiều tụy của thị “hôm nay thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Cái đói, với bóng đen kinh hoàng của nó bao trùm khắp mọi nơi, đè nặng lên cuộc sống bình thường của mỗi con người. Còn gì thê thảm bằng đám “rước dâu” có tiếng quạ kêu thê thiết đón chào, đêm tân hôn có tiếng ai hờ khóc tỉ tê “có mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”.

Trong cái thời đoạn ấy, việc Tràng lấy vợ quả là một tình huống oái oăm. Ta sẽ mừng hay lo, buồn hay vui cho cặp vợ chồng này? Tâm trạng của những nhân vật trong câu chuyện chứa đầy những cảm xúc ngổn ngang và mâu thuẫn. Bà cụ Tứ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi vì sự trớ trên của số phận : có phải thời “tao đoạn” như thế, người ta mới chịu lấy con mình? Bà mẹ nghèo nặng trĩu những lo âu cho tương lai của con mình, “liệu chúng nó có nuôi nhau nổi sống qua được cơn đói khát này không?”.

Câu hỏi từ tận đáy lòng của bà mẹ “chất chứa nỗi hoang mang, ám ảnh của kiếp bần hàn không lối thoát và cả sự rình rập trước ngõ của cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế”. Trong lòng bà, ta cảm thấy cả nỗi buồn của một người mẹ không được thấy con trong ngày vui, không được một vài mâm làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngoài tâm sự của bà có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã không làm được đầy đủ bổn phận của một người mẹ đối với con. Nỗi buồn tủi của bà cụ Tứ, thân phận bọt bèo của những con người như Tràng và cô vợ Nhặt, những cám cảnh bần cùng ấy tự thân nó đã có sức tố cáo mạnh mẽ cái tội ác của thực dân phát xít….

Không cần dùng đến những lời lẽ đanh thép hay “đại ngôn” nhưng tác phẩm Vợ nhặt mang đến một giá trị nhân bản vô cùng to lớn. Bằng tình huống đầy bi hài, nó xoáy vào tố cáo chế độ thực dân phát xít, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái đói kinh hoàng.

Tình huống mang tính nhân văn cao cả, làm ngời sáng lên vẻ đẹp của những người nông dân bình thường thô mộc. Đó là khát khao hạnh phúc của anh Tràng. Tình huống nhặt vợ mang đầy vẻ bi hài. Việc Tràng có vợ vừa tình cờ, ngẫu nhiên vừa có gì đó như là tất yếu, phải như thế và không thể khác được. Và chỉ bằng những câu bông lơn và bốn bát bánh đúc, thị đã đồng ý làm bạn với hắn. Chính Tràng cũng thấy bản thân thay đổi nhờ việc có vợ: anh cảm thấy hạnh phúc, thấy có trách nhiệm với gia đình.

Tràng hoàn toàn mờ mịt về tương lai của mình “thóc gạo này đến thân mình còn chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng” nhưng hắn vẫn ra tay cưu mang người đàn bà nghèo khổ. Đói kém đã đẩy đưa người phụ nữ đến với hắn, mang đến cho hắn niềm hạnh phúc của một người có được mái ấm gia đình với bao ước mơ về tương lai dung dị nhưng đầy cảm động. Chính vì thế, hắn nhận ra trách nhiệm của mình đối với hạnh phúc mà mình vừa có được. Lòng hắn chợt loé lên một ý nghĩa được đổi đời, tự dưng hắn thấy ân hận , tiếc rẻ, vẩn vơ, khó hiểu.

Người vợ nhặt cảm giác rõ ràng mình đã bước ra khỏi cái chết để hướng về một tương lai tươi sáng. Thị theo hắn dường như để giải quyết nhu cầu ăn. Những chuyện tưởng như rất thô lậu và trơ trẽn nhưng dưới ngòi bút tài tình của Kim Lân, nó trở nên nhẹ nhàng hơn và lấp ló tình thương. Xóm ngụ cư le lói một niềm vui, thấp thoáng một sức sống khi tràng lấy vợ. Người ta vừa ngậm ngùi, lo lắng, vừa phấp phỏng niềm tin yêu vào một cuộc sống có thể không no đủ hơn nhưng sẽ vui hơn.

Chính trong cái cảnh thê lương ấy, những tấm lòng nhân hậu lại sáng ngời lên mà tiêu biểu trong tác phẩm là bà cụ Tứ. Khuôn mặt bủng beo của bà cụ Tứ bỗng nhiên rạng rỡ hẳn lên vì niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai của mình và các con. Trong lòng người mẹ nghèo ấy lúc nào cũng mang sẵn tình thương con vô bờ bến “vừa ai oán vừa xót xa cho số kiếp của đứa con mình”. Trong cái nhìn đăm đăm vào người đàn bà đang “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” có sự xót thương, thông cảm sẻ chia. Tình thương con dù bao la đến mấy cũng có thể chỉ làm bà “rủ xuống hai dòng nước mắt”. Cái khổ đau vất vả một đời đã vắt kiệt nước mắt người mẹ. Nó không đủ để chảy thành dòng “rủ” xuống như chết non một cách tức tưởi. Không còn nước mắt nhưng bà vẫn nhận lấy nguy cơ bị cái chết gần thêm bước nữa.

Bằng ngòi bút tài năng của mình, Kim Lân có lúc đã đưa người đọc đến tận cùng màn đêm tối tăm, u ám, nhưng rồi lại nhẹ nhàng hé ra một khe sáng lấp ló đâu đó khiến chúng ta hướng về và vươn tới. Người dân Việt nam mà đại diện là những bà mẹ Tràng, anh Tràng và người đàn bà vẫn khát khao cuộc sống hạnh phúc tươi sáng hơn. “Bà lão nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này”. Trong tâm trí bà đã có sẵn một viễn cảnh tươi sáng gia đình. Niềm vui làm bà mẹ Tràng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác thường , “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Ta vui lây niềm vui của gia đình hòa thuận, đầm ấm, niềm vui của Tràng được thấy xung quanh mình hôm nay có gì vừa thay đổi mới mẻ, khác thường. Niềm vui bất chợt của gia đình làm ta cười sung sướng nhưng nước mắt vẫn cứ tuôn mãi nghẹn ngào. Ta muốn tha thứ tất cả, kể cả sự trơ tráo của người đàn bà và cả tội phung phí đến hai hào dầu của anh Tràng.

Nhà văn Kim Lân đã xây dựng được một tình huống bất thường để nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con người. Ý kiến tập trung vào sự trái ngược giữa hai từ ngữ “bất thường” và “bình thường”. Hai từ tuy có ý nghĩa trái ngược nhưng không loại trừ nhau, mà bổ sung ý nghĩa cho nhau để làm nổi bật tài năng của nhà văn Kim Lân. Sự bình thường và bất thường là một quy luật tất yếu và là cặp anh em song sinh không thể tách rời trong cuộc sống.

Nhận xét cũng giúp người đọc cảm nhận rõ sự đồng cảm sâu sắc của nhà văn với những số phận bất hạnh trong nạn đói năm 1945, bởi chính Kim Lân cũng từng phải ăn cám trong năm đói đó. Qua đó, người đọc hiểu được cảm quan nhân đạo mà Kim Lân gửi gắm qua tác phẩm. Điều này càng làm rõ được tài năng lựa chọn tình tiết, tổ chức cốt truyện, xây dựng nhân vật và đặc biệt là đã sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo.

  • Kết bài:

Chỉ một tình huống nhỏ nhoi nhưng Kim Lân đã gợi nên biết bao điều. Mỗi ý nghĩ của tình huống lại mang một giá trị nhân bản,tấm lòng nhân đạo bao la của nhà văn. Chính vì thế, tác phẩm đã nói lên khát vọng bình thường mà chính đáng của con người, mang đầy tình yêu thương nồng ấm như một ngọn lửa nhỏ lấp loé mãi trong cuộc đời.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang