Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
1. Nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Nguyễn Minh Châu (1930-1989), là nhà văn trưởng thành từ thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nguyễn Minh Châu quê tỉnh Nghệ An, gia nhập quân đội năm 1950 (20 tuổi), 32 tuổi chuyển sang hoạt động văn nghệ từ đó chính thức trở thành nhà văn quân đội, nhà văn trưởng thành từ trong quân ngũ, từ khói lửa chiến tranh, những tác phẩm đầu tiên của Nguyễn Minh Châu cũng là những tác phẩm viết về chiến tranh.
Viết về chiến tranh, hình tượng trung tâm là người lính trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Tác phẩm tiêu biểu trước 1975 là truyện Mảnh trăng cuối rừng viết về câu chuyện tình yêu đẹp, lãng mạn giữa một cô thanh niên xung phong với một anh lính lái xe trên miền rừng núi phía tây Trường Sơn.
Đầu những năm 1980, đổi mới trong quan niệm về cuộc đời, về con người, mà chúng ta hay nói bằng một cụm từ “cuộc đời thì đa sự, con người thì đa đoan”. Đổi mới trong cách nhìn nhận về con người, con người không phải là đơn giản như trong trang văn là có sự phức tạp mà nói như Nguyễn Tuân là có sự lẫn lộn giữa rồng phượng và rắn rết.
Tác giả nhìn nhận và tái hiện con người như vậy. Con người có sự hòa trộn của những sự bề bộn. Thứ hai là cách nhìn nhận cuộc sống, cuộc sống đa chiều đầy những vết nham nhở, sần sùi. Cuộc sống đó có cả niềm vui lẫn nỗi buồn, có cả những vật vã bức bối. Và trong cuộc sống ấy tác giả đã tìm thấy những mặt khuất lấp của chiến tranh, những phần sâu kín trong tâm hồn của con người ttrong cuộc sống đời thường sau chiến tranh. Làm rõ vai trò tiên phong trong văn học thời kì đổi mới qua các tác phẩm Bến quê, Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,…
Trước 1975: đề tài chiến tranh với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn. Sau 1975: Chuyển sang những vấn đề triết lí nhân sinh với cảm hứng thế sự đời tư. Tác phẩm Nguyễn Minh Châu thể hiện cái nhìn đa diện về cuộc đời, con người. Nguyễn Minh Châu là một trong số những người mở đường tinh anh nhất của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
2. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
Chiếc thuyền ngoài xa được viết năm 1983, thuộc giai đoạn sáng tác thứ 2 của Nguyễn Minh Châu. Ở giai đoạn này, Nguyễn Minh Châu cùng với Nguyễn Khải là hai nhà văn xông xáo và thành công nhất trong công cuộc đổi mới nền văn học nước nhà.
Đặc điểm xã hội và văn học giai đoạn bắt đầu bước vào công cuộc đổi mới: Cuộc kháng chiến chống giặc đã kết thúc một cách huy hoàng, đã khép lại năm 1975 và dư âm của nó còn có thể kéo dài sau một vài năm nữa nhưng đến đầu những năm 1980 thì lúc này cuộc sống muôn mặt của đời thường sau chiến tranh đã trở lại. Và tác giả quay lại với những vấn đề của đời sống văn hóa, nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chúng ta tạm thời quên đi, chúng ta tạm thời không chú ý thì đến bây giờ nó quay lại vẹn nguyên và được con người quan tâm chú ý và nhà văn chính là người thư kí trung thành của thời đại cho nên đã phản ánh lại những vấn đề nhân sinh ấy trong tác phẩm của mình.
“Chiếc thuyền ngoài xa” cũng mang xu thế chung của nền văn học thời kì đổi mới :văn học hướng nội, là khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống muôn mặt đời thường; không phải là con người lí tưởng trong chiến tranh nữa, không phải là những người anh hùng nữa, không phải là những con người hoàn hảo nữa mà bây giờ là con người trong cuộc sống đời thường sau chiến tranh. Con người ấy phức tạp muôn mặt, có cả rồng phượng và rắn rết. từ đó tác giả đặt ra những triết lí, vấn đề đạo đức rất sâu sắc, rất có ý nghĩa.
Câu chuyện kể về những điều được chứng kiến và chiêm nghiệm sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong một chuyến đi thực tế. Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển, theo lời đề nghị của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi tới một vùng biển đã từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mỹ. Sau mấy buổi sáng “phục kích”, anh đã “chộp” được một cảnh “đắt” trời cho: cảnh một chiếc thuyền ngoài xa trong làn sương sớm, đẹp như một bức tranh mực tàu.
Thế nhưng ngay sau đó, Phùng lại chứng kiến một cảnh bạo lực gia đình. Những ngày sau, cảnh bạo lực đó lại tiếp diễn. Không thể nén chịu được, Phùng đã xông ra ngăn cản người đàn ông, bị lão đánh trả nên anh bị thương. Ở tòa án huyện, người đàn bà hàng chài được Đẩu, chánh án huyện, mời đến, anh khuyên người đàn bà bỏ chồng để khỏi bị hành hạ. Nhưng khi nghe câu chuyện và những lý lẽ của người đàn bà hàng chài thì Phùng và Đẩu đã vỡ lẽ ra nhiều điều.
Những tấm ảnh Phùng chụp đã được chọn cho bộ lịch nghệ thuật. Mỗi lần ngắm bức ảnh ấy, Phùng lại thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai và người đàn bà hàng chài thô kệch.
Qua câu chuyện người đàn bà hàng chài, anh nhận thức được giá trị đích thực của cuộc sống. Hạnh phúc đôi khi thật nhỏ bé, giản đơn. Sự tàn bạo có thể nảy sinh từ túng quẫn, bế tắc. Đằng sau vẻ ngoài xấu xí là hạt ngọc tâm hồn, lấp lánh tình thương của sự hi sinh thầm lặng.
Phùng cũng đã có những chuyển biến trong nhận thức về nghệ thuật. Anh nhận ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời : « độ chênh » giữa bức ảnh nghệ thuật và hiện thực cuộc sống lam lũ tăm tối của những con người kia đã thay đổi cách nhìn người, nhìn đời của anh. Tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch năm ấy” : là một tấm ảnh đen trắng, nhưng khi nhìn vào đấy tác giả luôn thấy cái màu hồng hồng của ánh sương mai và người đàn bà hàng chài lam lũ
“Cái màu hồng hồng của ánh sương mai” là chất thơ của cuộc sống , là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời , là biểu tượng của nghệ thuật. Hình ảnh “Người đàn bà bước ra khỏi bức tranh là hiện thân của những lam lũ , khốn khó của đời thường”. Nó là sự thật của cuộc đời đằng sau bức tranh. Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời. Nghệ thuật là chính cuộc đời và phải luôn luôn vì cuộc đời. Người nghệ sĩ cần phải trung thực, dũng cảm nhìn thẳng vào hiện thực, nhìn vào số phận mỗi con người.
Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với những cảnh đời, những thân phận trớ trêu, gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống đồng thời gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật : nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn bó với cuộc đời và vì cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách giản đơn, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều.