phan-tich-7-cau-cuoi-bai-tho-ben-kia-song-duong-cua-hoang-cam

Phân tích 7 câu cuối bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm

Phân tích 7 câu cuối bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm

Hoàng Cầm viết bài thơ “Bên kia sông Đuống” vào một đêm tháng 4 năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Xúc động trào dâng sau khi được nghe những tin tức quê nhà bị giặc chiếm đóng, tàn phá, dưới ngọn đèn dầu sử, trong tiếng vọng của tiếng súng, ông viết thâu canh, cho đến lúc gà gáy sáng thì hoàn thành bài thơ. Tràn ngập bài thơ là cái tình quê, hồn quê dạt dào. Nỗi nhớ thương, tự hào quê Mẹ đất Cha, nỗi xót xa, căm giận, nuối tiếc… quê hương đang bị quân thù giày xéo, là cảm xúc chủ đạo của áng thơ này. 7 câu thơ cuối bài thơ

Trên cái nền của cảnh chợ chiều tưởng như hoang vắng, không còn ai là hình ảnh người mẹ yếu ớt và cô đơn :

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao bước thấp bên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa tạnh mái đầu bạc phơ

Đây là những câu thơ giàu chất tạo hình của cả đoạn, gây ấn tượng cho người đọc. Đầu tiên là hình ảnh bà mẹ già nua quẩy gánh hàng rong trở về khi chưa bán được một đồng. Xung quanh mẹ không có ai mà con đường như mỗi lúc một dài thêm: Bước cao bước thấp bên bờ tre hun hút. Bỗng nhiên xuất hiện hình ảnh con cò :

Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu

Nhưng đây lại là hình ảnh con cò lạ lùng nhất xưa nay. Đó không là con cò trắng quen thuộc biểu tượng về người phụ nữ Việt Nam tảo tần khuya sớm :

Con cò đi đón cơn mưa
Tối tam mù mịt ai đưa cò về?

Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non

Đó càng không phải là con cò thanh thoát, nhẹ nhàng, thong thả trong cảnh yên bình :

Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ, bay ra cánh đồng

Lần đầu tiên con cò đi vào văn chương với dáng vẻ hoảng hốt, sợ hãi :

Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu

Đến con cò nhỏ kia cũng là nạn nhân của quân giặc. Những bãi mía nương dâu có ngô khoai biêng biếc giờ không còn là đất sống của nó nữa. Hình ảnh con cò bay vùn vụt càng khắc sâu nỗi cô đơn, lẻ loi của người mẹ quê :

Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa tạnh mái đầu bạc phơ

Nỗi khổ vật chất (lòng đói) đi liền với là nỗi khổ tinh thần (dạ sầu ). Nhịp thơ lục bát 2/2 gợi gánh nặng chất chồng lên vai mẹ. Buổi chiều ảm đạm đọng mãi hình ảnh mái đầu bạc phơ của người mẹ già. Câu thơ chỉ tả mà cảm xúc lại nghẹn ngào, đau đớn.

Kinh Bắc – vùng quê hương văn hiến trữ tình đã nuôi dưỡng hồn thơ Hoàng Cầm chứa chan tình mẹ, tình yêu đôi lứa và tình thương con người. Có thể nói, văn hóa Kinh Bắc như một cánh diều bay trên bầu trời thổi lên tiếng sáo nhớ nhung mà thi sĩ là người cầm dây. Để từ đó dệt nên những vần thơ trữ tình, mượt mà, đầy sức quyến rũ từ nội tâm sâu thẳm. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” đã làm Hoàng Cầm hiểu ra một điều quan trọng: quê hương Kinh Bắc chính là điều kỳ diệu nhất tạo hóa ban tặng ông, là “thiên mệnh” thơ của đời ông.

Dàn bài: Phân tích 10 câu thơ đầu trong bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang