Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà
I. Mở bài:
– Giới thiệu truyền thoogns đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
– Giới thiệu bài thơ Nam quốc sơn hà: Tương truyền được Lí Thường Kiệt sáng tác vào khoảng cuối năm 1076, trong một trận chiến đấu ác liệt chống quân Tống xâm lược.
– Bài thơ là lời động viên tướng sĩ hăng hái giết giặc, vừa là tuyên ngôn đanh thép cảnh cáo, làm lung lay ý chí kẻ thù.
II. Thân bài:
1. Khẳng định chủ quyền độc lập, tự do của nước Nam là chân lí không gì thay đổi được (2 câu thơ đầu).
+ Câu thứ nhất: Nam quốc sơn hà Nam đế cư (Sông núi nước Nam vua Nam ở).
– Khái niệm vua Nam vào thời bấy giờ đồng nhất với khái niệm dân tộc. Vua đại diện cho quốc gia, dân tộc.
– Xưng danh Nam quốc (nước Nam) là tác giả có chủ ý gạt bỏ thái độ miệt thị từ trước tới nay của các triều đình phong kiến phương Bắc (Bắc quốc) đối với nước ta, coi nước Nam chỉ là chư hầu.
– Khẳng định tư thế bình đẳng, độc lập về chính trị của nước ta bằng thái độ kiêu hãnh, tự hào (Nam quốc, Nam đế).
+ Câu thứ hai: Tiệt nhiên định phận tại thiên thư (Vằng vặc sách trời chia xứ sở).
– Nhấn mạnh vào chủ quyền của nước Nam đã được ghi rõ trong sách trời (Thiên thư). Trời đã phân định cho nước Nam bờ cõi riêng. Câu thơ nhuốm màu sắc thần linh thiêng liêng khiến cho chân lí về chủ quyền độc lập của nước Nam càng tăng thêm giá trị.
1. Khẳng định sự thất bại tất yếu của kẻ thù xâm lược (hai câu thơ sau).
+ Câu thứ ba: Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm (Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?)
– Thái độ của tác giả là căm giận và khinh bỉ: gọi quân xâm lược là nghịch lỗ, tức lũ giặc ngạo ngược, làm trái đạo trời, đạo người.
– Ngạc nhiên trước việc một nước lớn tự xưng là thiên triều mà lại dám phạm tới lệnh trời.
+ Câu thứ tư: Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Chúng mày nhất định phải tan vỡ)
– Cảnh cáo quân xâm lược rằng làm trái đạo trời thì tất yếu sẽ chuốc lấy thất bại thảm hại. Đó là quy luật không thể tránh khỏi.
– Thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh chính nghĩa của quân và dân nước Nam sẽ đánh tan quân thù, bảo vệ chủ quyền độc lập, tự do của Tổ quốc.
III. Kết bài:
– Trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt đã trở thành nguồn sức mạnh tinh thần to lớn, động viên quân ta anh dũng chiến đấu và chiến thắng.
– Bài thơ ra đời đã gần ngàn năm nhưng ý nghĩa to lớn, sâu sắc của nó vẫn còn nguyên vẹn, xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta.
Bài văn tham khảo:
- Mở bài:
Chủ quyền dân tộc là vấn đề không chỉ được quan tâm ở mảng chính luận mà còn là nguồn cảm hứng cho rất nhiều tác giả. Cùng với dòng chảy của lịch sử, biết bao tác phẩm chứa đậm tình yêu đất nước đã ra đời và sống mãi đến ngày nay. Trong đó, “Nam quốc sơn hà” là áng thơ bất hủ của văn học Việt Nam. Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà, ta sẽ thấy được niềm tự hào, tự tôn dân tộc lớn lao của dân tộc.
- Thân bài:
“Nam quốc sơn hà” được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Cho đến nay, tác giả thực sự của bài thơ vẫn chưa được làm rõ, nhưng theo những tư liệu xưa, bài thơ được xem là do Lý Thường Kiệt sáng tác. Bài thơ được xem là “thơ thần” bởi lẽ nó không chỉ khẳng định được vấn đề về chủ quyền lãnh thổ, nền độc lập của nước ta, mà còn thể hiện được tính thần lực, lòng tự tôn dân tộc mạnh mẽ của vị chủ tướng tài ba Lý Thường Kiệt cũng như những người dân Việt Nam. Bài thơ cũng là lời tuyên bố, khẳng định đanh thép của tác giả đối với những kẻ có ý định xâm phạm vào lãnh thổ nước ta, xâm phạm vào lòng tự tôn của một dân tộc Việt Nam anh hùng.
Theo giai thoại, trong cuộc chiến đấu chống quân Tống của quân dân Đại Việt, chủ tướng Lý Thường Kiệt đã đọc bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” ở đền thờ hai vị thần Trương Hống, Trương Hát – hai vị thần của sông Như Nguyệt. Bài thơ thần đã vang lên vào thời điểm đêm khuya, lại được vọng ra hùng tráng, đanh thép từ một ngôi đền thiêng liêng. Vì thế đã làm cho quân Tống vô cùng khiếp sợ. Bọn chúng đã vô cùng hoảng loạn, lo lắng, nhuệ khí của quân giặc bị suy giảm một cách nhanh chóng. Cũng nhờ đó mà quân dân ta có thể tạo ra một chiến thắng lừng lẫy, oai hùng sau đó, tạo được tiếng vang làm biết bao đế chế phải khiếp sợ.
Mở đầu bài thơ, tác giả Lý Thường Kiệt đã khẳng định một cách chắc chắn, mạnh mẽ về vấn đề chủ quyền, ranh giới lãnh thổ của dân tộc Đại Việt. Đó là ranh giới đã được định sẵn, là nơi sinh sống của người dân Đại Việt từ ngàn đời nay. Lời khẳng định này không phải chỉ là lời khẳng định của tác giả, mà tác giả còn đưa ra những luận chứng sắc sảo, đó là bởi “thiên thư” (sách trời) quy định. Tức sự độc lập, chủ quyền về lãnh thổ ấy được trời đất quy định, chứng giám. Một sự thật hiển nhiên mà không một ai có thể chối cãi được:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”
(Sông núi nước Nam có vua Nam ở
Điều đó đã được sách trời ghi rõ)
Theo tác giả, sông núi nước Nam, bất cứ sự vật nào trên đất Nam đều là những vật thuộc quyền sở hữu của người Nam. Đây không chỉ là những hình ảnh biểu tượng cho ranh giới, chủ quyền của dân tộc Việt Nam mà còn khẳng định một cách chắc chắn quyền sở hữu của “sơn hà” ấy là của người Việt Nam. Có thể thấy, đây là lần đầu tiên trong một tác phẩm thơ văn, vấn đề chủ quyền dân tộc được khẳng định. Và mặc dù là tác phẩm đầu tiên, lời thơ vẫn vang lên vô cùng mạnh mẽ, hào sảng. Dân tộc Việt Nam không chỉ là dân tộc có chủ quyền, có lãnh thổ mà dân tộc ấy còn có người đứng đầu, người quản lí, làm chủ người dân của quốc gia ấy. Đó chính là “Nam đế”. Tác giả cũng mạnh mẽ khẳng định vị thế của người đứng đầu đất nước. Không phải là vương, là chư hầu nhỏ bé mà là “đế”, là vị vua ngang hàng với bất cứ vị vua nào. Chủ quyền ấy, lãnh thổ cương vực ấy không phải do người Nam tự quyết định lựa chọn cho mình, người dân nơi ấy chỉ sinh sống, làm ăn sinh hoạt từ rất lâu đời, do sự định phận của “sách trời”, đó là đấng cao quý vì vậy mọi sự quy định, chỉ dẫn của “trời” đều rất có giá trị, đều rất đáng trân trọng.
Hai từ “tiệt nhiên” (rành rành) là dùng để chỉ sự hiển hiện, tất yếu mà ai cũng có thể nhận biết và phân biệt được. “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” có nghĩa vùng lãnh thổ ấy, chủ quyền ấy của người Nam đã được sách trời ghi chép rõ ràng, dù có muốn cũng không thể chối cãi, phủ định. Như vậy, ở hai câu thơ đầu, tác giả Lý Thường Kiệt đã đưa ra lời khẳng định hào sảng, chắc chắn về vùng lãnh thổ, ranh giới quốc gia. tác giả cũng khẳng định chủ quyền, quyền làm chủ của nhân dân Đại Việt với quốc gia, dân tộc mình. Hơn thế, tác giả còn rất tỉnh táo, sắc sảo khi đưa ra những luận cứ đúng đắn, giàu sức thuyết phục. Đó là sự thật mà không một kẻ nào, một thế lực nào có thể phủ định, bác bỏ được nó. Ngay từ những lời đầu tiên, bài thơ đã làm nổi bật sự hào hùng, mạnh mẽ và rất đỗi tự hào của tác giả về chủ quyền của dân tộc mình. Và hơn cả, đó cũng chính là niềm tự hào, tự tôn chung của cả dân tộc Việt Nam.
Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà từ sự khẳng định mạnh mẽ vấn đề chủ quyền của dân tộc Đại Việt, Lý Thường Kiệt đã lớn tiếng khẳng định, cũng là lời cảnh cáo đến kẻ thù. Chúng sẽ phải nhận những kết cục bi thảm nếu biết rõ nhưng vẫn cố tình thực hiện hành động xâm lăng lãnh thổ, gây ra những mất mát, đau thương cho nhân dân Đại Việt:
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
(Lũ giặc dữ vô cớ sang xâm phạm
Chúng bay nhất định sẽ chuốc lấy bại vong)
Sự thật hiển nhiên rằng, “Nam quốc sơn hà” là do người Nam ở, người Nam làm chủ. Thế nhưng lũ giặc lại không hề màng đến sự quy định mang tính tất yếu ấy, chúng cố tình xâm phạm Đại Việt, cũng là xúc phạm đến sự tôn nghiêm của đạo lí, của luật trời: “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm” hành động ngông cuồng, phi nghĩa. Hành động này của bọn chúng thật đáng bị phê phán, thậm chí đáng để trừng phạt bằng những hình thức thích đáng nhất.
Và ở trong bài thơ này, tác giả Lý Thường Kiệt cũng đã đanh thép khẳng định cái kết cục đầy bi đát, ê chề cho lũ cướp nước, coi thường đạo lí: “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”(Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời). Với tất cả sức mạnh cũng như lòng tự tôn, tính chính nghĩa của dân tộc Đại Việt thì lũ xâm lăng chỉ có một kết cục duy nhất, một kết quả không thể tránh khỏi. Bọn chúng không chỉ thua một cách ê chề, nhục nhã mà còn phải cúi đầu trước một dân tộc nhỏ bé nhưng phi thường, dũng cảm và kiên quyết chiến đấu cho độc lập, chủ quyền của dân tộc. Dù sau này có biết bao tác phẩm khác nói về chủ đề này, thì “Nam quốc sơn hà” vẫn là áng thơ bất hủ, sống mãi trong trái tim của người Việt Nam. Là niềm tự hào bất diệt của một dân tộc nhỏ bé nhưng phi thường.
- Kết bài:
Với giọng điệu hào sảng, lập luận sắc bén, chỉ với bốn câu thơ, tinh thần và ý chí của nhân dân Việt Nam hiện lên rất rõ ràng. Đó là lời khẳng định chủ quyền dân tộc, là lời quyết tâm bảo vệ đất nước của người chủ tướng, cũng là đại diện cho hàng triệu triệu người dân. Qua bài thơ, lòng tự tôn dân tộc, tình yêu đất nước được thể hiện mạnh mẽ, đại diện cho truyền thống yêu nước ngàn đời của nhân dân ta. Bài thơ cũng là lời nhắn nhủ thế hệ sau phải trân trọng, gìn giữ gấm vóc non sông, xứng đáng với những gì cha ông đã đánh đổi và bảo vệ tới cùng.