phan-tich-bai-tho-tay-tien-cua-quang-dung-2

Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Phân tích bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.

  • Mở bài:

Quang Dũng là một người nghệ sĩ đa tài. Ông viết văn, làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc đều rất xuất sắc. Nhưng Quang Dũng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ lãng mạn và tài hoa. Là con của “xứ Đoài mây trắng”, thơ Quang Dũng giàu chất nhạc, chất họa. Tây Tiến là tác phẩm tiêu biểu nhất của hồn thơ Quang Dũng. Bao trùm bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên, con người miền Tây, về những người lính Tây Tiến anh hùng.

  • Thân bài:

1. Tiếng gọi tha thiết cất lên từ nỗi nhớ thiên nhiên miền Tây.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

Trong tâm trí nhà thơ, Tây Tiến là một vùng đất đầy ắp kỉ niệm nên mở đầu bài thơ là tiếng gọi thể hiện nỗi nhớ tha thiết, bâng khuâng; gợi nhắc một địa danh đong đầy bao kí ức của đời lính. Sông Mã là nỗi nhớ đầu tiên của Quang Dũng. Vì con sông Mã là người bạn, là nhân chứng đã theo suốt chặng đường hành quân, chứng kiến bao buồn vui, mất mát, hi sinh, vất vả của người lính Tây Tiến. Gọi tên Tây Tiến là gọi tên đồng đội, gợi nhớ bạn bè của một thời chinh chiến.

“Tây Tiến ơi!” – câu cảm vang lên là tiếng lòng da diết gắn liền với bao kỉ niệm thân thương về đoàn quân Tây Tiến. Nỗi nhớ đó vừa cụ thể vừa gắn liền với địa danh Tây Bắc: “nhớ về rừng núi” : vừa xa xôi vừa không định hình. Cụm từ “nhớ chơi vơi”  tạo âm hưởng kéo dài, lan rộng, gợi mở một tâm trạng, cảm xúc vang xa đến mênh mông vô tận. Nghệ thuật sử dụng vần “ơi”, kết hợp từ láy “chơi vơi” là vần bằng tạo âm hưởng của tiếng gọi đồng vọng miên man không dứt. Điệp từ “nhớ” được nhắc lại hai lần góp phần tô đậm cảm xúc nhớ nhung dâng trào của tác giả. Đặc biệt là cách nói “nhớ chơi vơi”. “Chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu được. “Nhớ chơi vơi” có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.

Và nỗi nhớ ấy, tiếng gọi ấy đang đưa nhà thơ về với những kỉ niệm không quên của một thời gian khổ. Ta bắt gặp ở đó con đường hành quân đầy gian khổ nhưng thật trữ tình nơi núi rừng miền Tây hùng vĩ, thơ mộng. Liệt kê hai cái tên: “Sài Khao”, “Mường Lát” xa lạ, Quang Dũng như gieo vào lòng người đọc ấn tượng về một vùng đất xa xôi, hoang dã.

Hình ảnh “sương lấp đoàn quân mỏi” giàu sức gợi tả. Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ “lấp” cả đoàn quân. Chữ “lấp” là động từ mạnh gợi cảm giác về sự khắc nghiệt dữ dội của thiên nhiên. Đoàn quân đi trong sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp. Chữ “mỏi” làm hiện lên trước mắt ta hình ảnh của một đoàn quân mệt mỏi, rã rời.

Tuy vậy họ vẫn thấy con đường hành quân thật đẹp và thơ mộng. Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” không chỉ gợi ra cái giá lạnh mà còn là một hình ảnh nên thơ. Đoàn quân Tây Tiến mất hút trong “sương lấp” rồi lại xuất hiện trong khung cảnh “hoa về trong đêm hơi” đầy lãng mạn. Chữ “hoa về” rất gợi, có thể là hoa đang nở, hương hoa đang dậy lên trong đêm; mà cũng có thể là bó đuốc trên tay người lính qua “đêm hơi” trở nên lung linh như hoa; cũng có thể hiểu – mỗi anh lính như những bông hoa đang về với bản làng.

Nhớ Tây Tiến là nhớ về những cuộc hành quân vượt qua những con dốc:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi  

Điệp từ “dốc” cùng cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” tạo thành hai vế gợi cảm giác những con đường dốc nối tiếp nhau. Dốc cao dựng đứng hiểm trở, dốc tiếp dốc, trùng điệp. Những từ láy tạo hình “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” đặt trong câu thơ nhiều thanh trắc góp phần miêu tả cảnh hùng vĩ, đầy hiểm trở của núi rừng miền tây. Con đường hành quân qua dốc núi vừa gập ghềnh, trắc trở; vừa cao vừa sâu hun hút, con đường như dài ra theo bao nhiêu nguy hiểm khó khăn, vất vả với “cọp trêu người” (“chiều chiều”, “đêm đêm”) và thác cao nghìn thước.

Các từ láy tạo hình “khúc khuỷu” (quanh co, khó đi), “thăm thẳm” (diễn tả độ cao, độ sâu), “heo hút” (xa cách cuộc sống con người) gợi hình ảnh những con dốc quanh co, gập ghềnh. Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau “dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi như đang cùng hành quân với đoàn binh vậy.

Câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” cho thấy đỉnh núi mù sương cao vút. Núi cao tận mây, mây nổi thành cồn, mũi súng chạm trời. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp lãng mạn. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới.

Điệp từ “ngàn thước”, “lên” đối lập “xuống”, nhịp thơ 4/3 như tô đậm chiều cao, độ sâu và tạo một nét gãy đầy ấn tượng của núi đèo. Chiều cao và chiều sâu của dốc núi dựng đứng đã đặc tả được sự nguy hiểm đối với chiến sĩ. Dường như trong thế đứng hùng vĩ ấy, trong âm hưởng câu thơ có cả dáng mệt mỏi và nhịp thở đứt quãng nhọc nhằn của chiến sĩ Tây Tiến. Vất vả, gian lao nên không ít người đã mệt mỏi “Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Cách nói giảm làm dịu bớt đau thương – họ hi sinh như đi vào giấc ngủ thanh thản – nhưng cũng không che giấu bớt những gian khổ, nhọc nhằn đã vắt kiệt sức của các chiến sĩ. Tuy vậy, trên đỉnh núi cao, họ vẫn giữ cho mình cái nhìn, cách nói hóm hỉnh, vui tươi của một tâm hồn trẻ trung “súng ngửi trời”.

Có cảnh đoàn quân đi trong mưa vừa hùng vĩ lại rất nên thơ: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bởi những thanh bằng liên tiếp, gợi tả sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời.

2. Nhớ Tây Tiến là nhớ về hiện thực đầy gian khổ, hi sinh của đồng đội.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người  

Cái chết đậm chất bi hùng “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Từ láy “dãi dầu” tả gian khổ, vất vả. Ba chữ “bỏ quên đời” gợi tâm thế ngang tàng, kiêu bạc, coi thường cái chết, coi thường hiểm nguy. Chết trong tư thế đẹp, ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu, không quên nhiệm vụ của người lính, chết không rời bỏ đội hình, đội ngũ.

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người  

Hai câu thơ gợi hình ảnh núi rừng hoang sơ, huyền bí. Âm thanh dữ dội của tiếng thác buổi chiều “gầm thét” hòa điệu với tiếng gầm của cọp beo “đêm đêm” hợp thành một bản hòa tấu rùng rợn vang động núi rừng. Điệp từ: “Chiều chiều, “đêm đêm” chỉ thời gian, sự lặp lại, nhưng còn gợi hình ảnh đoàn quân Tây Tiến luôn phải đối mặt với những hiểm nguy ngày đêm rình rập, đe dọa.

3. Nhớ Tây Tiến là nhớ về những kỉ niệm dừng chân ở Mai Châu ấm áp.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi  

Hai câu thơ cuối gợi cảm xúc bồi hồi tha thiết. “Nhớ ôi!” từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến. Câu thơ đậm tình quân dân. Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó gợi lên vẻ đẹp xuân tình, nồng nàn hương sắc, hương xuân của những thiếu nữ Mai Châu và còn hàm chứa trong đó là bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp.

“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu. Câu thơ với nhiều thanh bằng như tiếng thở phào nhẹ nhõm, thanh thản sau khi vượt qua khó khăn. Từ đỉnh núi, ánh nhìn vươn dài theo cơn mưa rừng xa tận Pha Luông, không gian thơ mộng mở ra với những mái nhà thấp thoáng gợi tình cảm gia đình ấm áp, gần gũi; tiếp thêm sức mạnh vật chất và tinh thần cho người chiến sĩ sau chặng đường dài.

Cách nói “mùa em” vừa nhẹ nhàng, tình tứ vừa mới lạ, độc đáo. Tâm hồn lãng mạn, tinh tế của người lính Tây Tiến đang hòa một nhịp với những sinh hoạt bình dị và tấm lòng của người dân vùng cao dành cho chiến sĩ. Những bữa cơm đầm ấm tình quân dân, những bát xôi nếp thơm nồng kỉ niệm khiến câu thơ cuối khổ như một tiếng lòng da diết, khắc khoải của hoài niệm.

4. Nhớ Tây Tiến là nhớ về những đêm liên hoan văn nghệ sâu đậm nghĩa tình quân dân.

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ .

Từ “bừng lên” gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội, ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành “đuốc hoa” gợi không khí hạnh phúc, ấm cúng. “Bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng bừng rộn rã. Không chỉ thế người lính Tây Tiến còn mê say trong tiếng nhạc, điệu khèn của vùng đất lạ. Từ “kìa em” thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Những thiếu nữ Mường, Thái, Lào xinh đẹp, duyên dáng “e ấp”, xuất hiện trong bộ xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” đã “xây hồn thơ” trong lòng các chàng lính trẻ. Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Câu thơ cuối tả độ phiêu du của âm nhạc, cái phiêu du của hồn người đang thăng hoa cùng văn hoá Tây Bắc – “nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

5. Nhớ Tây Tiến là nhớ về cảnh chia tay trên sông nước miền  Tây vừa hiện thực vừa thơ mộng: hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị.

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.

“Chiều sương ấy” là một buổi chiều đặc biệt, đầy kỉ niệm đáng nhớ. Từ “ấy” gợi thời gian hoài niệm, gợi màu sắc bảng lảng, sương khói, gợi nỗi buồn man mác, bâng khuâng. Lau lách vốn vô tri, không có hồn nhưng dường như nó đã nhuốm màu tâm trạng nên nó mang linh hồn người:  “hồn lau nẻo bến bờ”.

Giữa không gian ấy, con người xuất hiện khoẻ khoắn, kiên cường. “Độc mộc” là một loại thuyền được làm từ thân gỗ lớn, dài. “Dáng người trên độc mộc” phải chăng là dáng người mềm mại của cô gái Thái, Mèo trên chiếc thuyền độc mộc đang đua chiến sĩ vượt sông hay dáng người kiêu hãnh, hiên ngang của người lính đang chèo thuyền tiến lên phía trước. Hình ảnh ấy càng làm cho bức tranh thêm phần thơ mộng.

Dòng sông Mã với Tây Bắc ẩn chứa biết bao dữ dội nay lại hiện lên “dòng nước lũ”: “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Câu thơ ngắt nhịp 4/3 tạo thành hai hai vế tiểu đối: “dòng nước lũ” tương phản với “hoa đong đưa”. Từ láy “đong đưa” gợi ấn tượng sâu sắc. “Đong đưa” chứ không phải là “đung đưa”, “đong đưa” vừa tả được chuyển động của hoa, vừa gợi được nét quyến rũ của hoa rừng Tây Bắc, vừa gợi cánh hoa rừng Tây Bắc cũng như quyến luyến con người. Điệp từ: “Có nhớ”, “có thấy” luyến láy, khắc hoạ thêm nỗi nhớ bồi hồi, lưu luyến.

6. Hình tượng người lính Tây Tiến bi thương, hào hùng, lãng mạn.

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Quang Dũng dùng bút pháp hiện thực để tô đậm cái phi thường của người lính. Đầu tiên có thể thấy cái bi thương: Ngoại hình người lính ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc “không mọc tóc”, da dẻ xanh như màu lá “quân xanh màu lá”. Đoàn quân trông thật kì dị. Đó là hậu quả của những ngày hành quân vất vả vì đói và khát, dấu ấn của những trận sốt rét ác tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá.

Bên cạnh cái bi ta còn thấy cái hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn đã làm nên cái chất mạnh mẽ trong tư thế của người lính: “Đoàn binh không mọc tóc”, câu thơ tả cái ngang tàng của người lính, lại như có nét đùa vui: không cần tóc mọc. Lại có thêm “quân xanh màu lá”, tương phản với “dữ oai hùm”. Cả ba nét vẻ đều sắc, góc cạnh. Hình ảnh những “vệ túm”, “vệ trọc” một thời gian khổ được nói đến một cách hồn nhiên.

Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì sốt rét rừng, thế mà quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà “ dữ oai hùm” làm cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. Cách dùng từ Hán Việt  “đoàn binh” đã gợi lên được sự mạnh mẽ lạ thường của sự hùng dũng, trong đó có dáng dấp của “Quân đi điệp điệp trùng trùng” trong thơ Tố Hữu, của “tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (sức mạnh ba quân nuốt trôi trâu) trong thơ Phạm Ngũ Lão. Ba từ “dữ oai hùm”, gợi dáng vẻ oai phong lẫm liệt, người lính Tây Tiến mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. “Mắt trừng” dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung nấu ý chí diệt thù.

Bên cạnh chất bi hùng, đoạn thơ còn để lại dấu ấn của chất lãng mạn của chàng trai Hà Nội mang tâm hồn hào hoa: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng, cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa. Giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn, trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ, trường xưa, những con đường mùa thu thơm lừng hoa sữa… hay chính xác hơn là nhớ về một “dáng kiều thơm”, bóng dáng của những người con gái Hà thành yêu kiều, diễm lệ.

7. Vẻ đẹp bi tráng, oanh liệt của người lính nơi biên cương.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu, anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Câu “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính. Miêu tả về cái chết, không né tránh hiện thực. Những nấm mồ hoang lạnh vô danh mọc lên dọc đường quân hành nhưng không làm chùn bước chân Tây Tiến. Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy.

Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Vì thế cho nên câu thơ tiếp theo dữ dội như một lời thề sông núi: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.

Phép tương phản: chiến trường – đời xanh. “Chiến trường” là đạn bom, chết chóc, hi sinh, gian khổ. “Đời xanh” là ẩn dụ chỉ vẻ đẹp tuổi trẻ, tuổi hoa niên. Bốn từ “chẳng tiếc đời xanh ” vang lên khảng khái, vừa gợi vẻ bất cần đồng thời mang vẻ đẹp thời đại “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, cống hiến trọn đời vì độc lập tự do của đất nước của dân tộc. Bởi vì hơn ai hết người lính hiểu rằng: Không gì quan trọng bằng Tổ quốc, hai tiếng giản dị mà thiêng liêng đến vô cùng:

“Ôi tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”

Chói ngời hơn nữa ở bức tượng đài người lính bộ đội Cụ Hồ là thái độ hi sinh. Quang Dũng viết về cái chết thật nhẹ nhàng như một khúc tráng ca:

 “Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

Quang Dũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh  áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông.

Cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Chết là sự trở về với đất mẹ, đất mẹ giang rộng vòng tay đón lấy các anh để từ đó:

“Người hi sinh đất hồi sinh
Máu người hóa ngọc lung linh giữa đời”.

Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Cái chết không chỉ làm xúc động lòng người mà còn làm cảm động đến cả thiên nhiên Tây Bắc. Vì thế khúc độc hành của dòng Sông Mã như lời tiễn đưa các anh bằng bản nhạc của núi rừng đượm chất bi tráng như loạt đại bác đưa tiễn những anh hùng về với non sông tổ quốc.

8. Tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh.

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. 

Chàng trai Tây tiến, khi ra đi đều không ước hẹn ngày về, đều sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn. Vì vậy, cái chết với họ nào có là gì khi hồn của họ đã hòa vào hồn thiêng sông núi, bay lên, bay lên mãi, “hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Dù chết, linh hồn họ vẫn theo đồng đội hành quân, chiến đấu. Quang Dũng khẳng định cái ý niệm “nhất khứ bất phục hoàn” trong hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến, cũng là cái ý niệm chung cả một thời kỳ, một thế hệ con người. Giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn nhưng ý thơ vẫn hào hùng.

  • Kết bài:

Với cảm hứng và bút pháp lãng mạng, cách sử dụng từ ngữ đặc sắc, kết hợp chất nhạc và chất họa, bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng man, đậm chất bi tráng sẽ luôn đồng hành trong trái tim và trí óc của mỗi chúng ta. “Tây Tiến mùa xuân ấy” đã trở thành cái thời điểm một đi không trở lại của lịch sử nước nhà. Sẽ không bao giờ còn có lại cái thuở gian khổ và thiếu thốn đến dường ấy nhưng cũng lãng mạn và hào hùng đến dường ấy.

Xem thêm:


Tham khảo:

Phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

Trong giai đoạn đầu của Việt học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám năm 1945, thời kì kháng chiến chống Pháp có một chùm thơ đẹp- thơ về người lính. Đề tài người lính, lại do người lính viết mà thành thơ. Chất thơ ấy được kết tinh từ đời sống hiện thực, cũng là kết tinh từ một lí tưởng, một cảm hứng lớn một thời. Nhưng khi những chất liệu vật chất và tinh thần ấy khúc xạ vào thơ thì mỗi bài một khác. Người đọc nhận ra Chính Hữu khỏe khoắn và bình dị trong Đồng chí, một Hồng Nguyên mộc mạc, dân dã trong bài Nhớ, một Quang Dũng với bài Tây Tiến lãng mạn, tài hoa. Thành công của bài thơ này phải chăng là ở bút pháp lãng mạn và cảm hứng anh hùng ca về người lính trong những năm đầu của cuộc kháng chiến vĩ đại mà rất đỗi gian lao?

Tác giả Quang Dũng (1921-1988):

– Thuộc thế hệ những học sinh, sinh viên trí thức Hà nội xếp bút nghiên lên đường chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp.

– Có hồn thơ phóng khoáng, lãng mạn, tài hoa. Ông là người tài hoa, vẽ tài, hát giỏi, văn tốt, thơ hay. Ông viết nhiều truyện ngắn xuất bản và viết kịch, và đã triển lãm tranh sơn dầu cùng với các hoạ sĩ nổi danh.

Thật đúng như một ai đó đã nói, Quang Dũng được sinh ra để làm một kiếp mây phiêu bạt. Bài Mây đầu ô (1970) lấy làm nhan đề cho tập thơ: Mây ở đầu ô mây lang thang, Mây ở đầu ô. Hẹn những chân trời xa lạ, Ta mê xanh thẳm- Như cánh chim trời

Bài thơ Tây Tiến:

– Xuất xứ: Rút trong tập thơ “Mây đầu ô”: Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đoàn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (một làng nằm ven sông Đáy hiền hòa thơ mộng, thuộc huyện Ứng Hòa- Hà Đông (cũ), Hà Tây nay), khi dự đại hội toàn quân liên khu III, Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến.

– Hoàn cảnh sáng tác: Cuối năm 1948, Quang Dũng được điều sang đơn vị khác. Ở Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ trong nỗi nhớ về đơn vị cũ. Ban đầu có tên là Nhớ Tây Tiến, sau đổi thành Tây Tiến: nỗi nhớ đã lặn xuống tầng sâu trong tâm hồn để chỉ còn hiển hiện một nỗi lòng hướng đến Tây Tiến, tạo nên một vẻ đẹp hàm súc cho bài thơ.

1. Nỗi nhớ về những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây (14 câu đầu):

* Hai câu đầu:

“ơi”: Từ hô gọi.

“ơi”, “chơi vơi”: điệp vần, từ láy.

– Điệp từ “nhớ”.

→ Tiếng gọi tha thiết, lưu luyến trong nỗi nhớ cồn cào về đơn vị cũ – đoàn quân Tây Tiến.

* Mười hai câu sau:

– Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch: Các địa danh Tây Bắc, gợi nơi xa xôi, hiểm trở

“Dốc lên…xa khơi”:

+ khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút: từ láy, gợi địa hình nguy hiểm

+ súng ngửi trời: nhân hóa, cường điệu; gợi những con dốc cao; cách nói hồn nhiên, có chất tinh nghịch của người lính.

– Dốc lên khúc khuỷu/ dốc thăm thẳm
Ngàn thước lên cao/ ngàn thước xuống

+ Điệp từ dốc, ngàn thước; đối lập (lên-xuống); nhịp 4/3:

+ Câu thơ như bẻ đôi, giàu tính tạo hình, gợi những dốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.

+ Nhà ai…xa khơi: Câu thơ toàn thanh bằng, gợi cảm giác nhẹ nhàng, êm ái

+ Cách phối thanh (3 câu đầu nhiều thanh trắc, câu cuối toàn thanh bằng): dịu bớt ấn tượng hiểm trở của núi đèo

→ Địa thế trùng điệp, hiểm trở, hoang vu và heo hút của núi đèo miền Tây.

Bút pháp hiện thực kết hợp lãng mạn:

“Chiều chiều…trêu người”:

+ gầm, trêu: Các động từ mạnh.

+ Phép đối: chiều chiều… đêm đêm:

→ Không gian núi rừng hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ, đầy bí ẩn

– Hình ảnh người lính: sương lấp, đoàn quân mỏi, “dãi dầu…quên đời”: hành quân gian khổ.

– Cuối đợt hành quân: cơm lên khói, nếp xôi: gợi cảm giác ấm áp.

Trong quy luật tình cảm của con người, nỗi nhớ chỉ xuất hiện trong những lúc chia xa. Tuy nhiên không phải cảnh ngộ chia xa nào cũng nhớ mà chỉ khi người ấy, nơi ấy được yêu thương gắn bó. Quang Dũng viết bài thơ khi rời đoàn quân Tây Tiến chưa lâu, tình cảm còn nồng nàn lắm. Nỗi nhớ ấy như nhớ một tình yêu. Câu đầu cất lên là một tiếng gọi. Trong tiếng gọi ấy có cảnh, có người. Cảnh là sông Mã, người là đoàn quân Tây Tiến. Cảnh và người gắn bó với nhau. “Sông Mã xa rồi” như một tiếng thở dài, còn “Tây Tiến ơi” lại là một tiếng gọi tha thiết. Câu đầu đã là nỗi nhớ dù chưa thành tên.

Đến lúc gọi thành tên ở câu sau thì nó cồn cào như 2 đợt sóng “Nhớ…chơi vơi”. Một chữ nhớ lặp lại, đứng đầu hai nhịp thơ gợi sự hun hút xa xôi. Tại sao không nhớ rừng núi mà là nhớ về rừng núi? Chữ về nói được trạng thái bất ngờ ập đến, chẳng hạn Gió lạnh tràn về. Ở đây là nỗi nhớ tràn về. hai chứ “chơi vơi” vẽ ra bức tranh bồng bệnh, vô định của tâm hồn, nỗi nhớ bàng bạc, bao trùm khắp không gian

Hai câu đầu mở ra nỗi nhớ về người lính. Nói đến người lính trong thời trận mạc là phải nói đến những cuộc hành quân như lời một bài hát “Đâu có giặc là ta cứ đi”. Nhưng hành quân trên một địa bàn như núi rừng miền Tây thì không gian khổ nào bằng.

Những từ ngữ giàu giá trị tạo hình trong 2 câu đầu khổ thơ đã diễn tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo miền Tây.

Ba chứ “súng ngửi trời” rất hồn nhiên cũng rất chân thực để đo độ cao thể hiện tính tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng như chạm đến mây trời. Còn mây nổi thành cồn heo hút. Người lính trèo lên những ngọn núi cao dường như đang đi trong mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời.

Đọc câu thứ 4 này có thể hình dung những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt mù sương rừng, mưa núi, thấy thấp thoáng những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi. 4 câu thơ này là một bằng chứng thi trung hữu họa (trong thơ có tranh vẽ). Bốn câu thơ phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt.

Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội họa: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại cả khổ thơ. Phép đối khiến khổ thơ có dáng dấp thơ Đường, tuy nhiên chất hiện thực ùa vào làm cho nó trở nên rất gần gũi.

Sự trùng điệp của núi đèo miền tây gợi mấy câu thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi gần xa/ Đứt thôi lại nối thấp đà lại cao”. Còn sự hoang vu và hiểm trở lại gợi nhớ Đường thục khó (Thục lộ nan) của Lí Bạch: Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh

Bút pháp lãng mạn ở đây nói được vẻ đẹp của một tâm hồn cất cánh. Nhìn vào đâu cũng thấy vui. Trong gian khổ tột cùng vẫn lóe lên một cái gì như ánh sáng. Như Tố Hữu nói về hình ảnh anh giải phóng quân trên chặng đường vượt dốc:“Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều/ Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo/ Núi không đè nổi vai vươn tới/ Lá ngụy trang reo với gió đèo”

Ý  thơ có hai cách hiểu: cái chết, nhìn nhận lãng mạn, hiện ra nhẹ nhàng như giấc ngủ của người lính.  Họ tạm thiếp đi trong chốc lát giữa cuộc hành quân gian khổ, mệt nhọc.

b. Những kỉ niệm về tình quân dân và cảnh sông nước miền Tây Bắc (8 câu tiếp):

– Bốn câu đầu:

+ bừng: bừng sáng, tỏa sáng (ngọn lửa): tình cảm ấm áp.

+ hội đuốc hoa: ẩn dụ, sáng tạo, gợi khung cảnh huyền ảo.

+ kìa: thái độ ngạc nhiên.

+ khèn, nhạc, thơ: những hoạt động trong đêm liên hoan.

→ Những kỉ niệm đẹp đẽ trong đêm liên hoan thể hiện tình quân dân ấm áp.

– 4 câu sau:

+ chiều sương không gian mờ ảo, gợi nhớ.

+ hồn lau.

+ dáng người vẻ duyên dáng, thơ mộng.

+ Từ láy: đong đưa.

→ Cảnh thiên nhiên sông nước Tây Bắc thơ mộng trữ tình. Nỗi nhớ bồn chồn gần như lặp lại: có thấy, có nhớ vừa hỏi người vừa hỏi mình nhưng cái người được nhớ chỉ phảng phất giữa khói sương ẩn hiện.

c. Bức chân dung người lính Tây Tiến (8 câu tiếp):

– Ngoại hình: đoàn binh không mọc tóc độc đáo, vừa quân xanh màu lá lạ vừa quen → Tiều tụy, ốm yếu, xanh xao vì bệnh tật

– Khí phách: oai hùm oai phong, hùng dũng, mắt trừng

– Hiện thực: mồ viễn xứ >< lí tưởng: đi chẳng tiếc đời xanh. Gợi cái chết quên mình vì tổ quốc (tính bi hùng)

Áo bào… về đất: coi nhẹ cái chết: Liên tưởng đến người tráng sĩ xưa

gầm…khúc độc hành: không gian dữ dội của núi rừng lấn át đi cái bi thương →Sự hiên ngang, hùng dũng. Tính chất bi tráng. Bút pháp lãng mạn.

– Tâm hồn: mơ Hà Nội dáng kiều thơm: nỗi nhớ về quê hương HN, về một bóng hồng trong mơ tưởng nào đó. →Tâm hồn trẻ trung, lãng mạn. Vẻ đẹp bút pháp lãng mạn trong thơ Quang Dũng.

d. Lời thể quyết tử cho tổ quốc quyết sinh (4 câu cuối):

Người đi không hẹn ước: tinh thần “một đi không trở lại”, khí thế hào hùng.

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi: tình yêu mãnh liệt với Tây Bắc.

– Giọng thơ trầm, buồn.

→ Lời thề gắn bó với Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến.


LUYỆN TẬP:

Câu 1: Trình bày hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

Gợi ý :

Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt –Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như ở miền tây Bắc Bộ Việt Nam.

Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng nhưng chủ yếu là ở biên giới Việt – Lào.

Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.

Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến từ đầu năm 1947 đến cuối năm 1948 rồi chuyển sang đơn vị khác. Rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là Tây Tiến.

Câu 2: Cảm hứng chủ đạo của bài thơ Tây Tiến ?

* Gợi ý :

Cảm hứng lãng mạn:

  • Thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm, cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng nhiều biện pháp tu từ để tô đậm cái phi thường, tạo ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ, tuyệt mỹ của núi rừng miền tây.
  • Bức chân dung kiêu hùng của người lính Tây Tiến.
  • Sự hoang dại, bí ẩn của núi rừng và những hình ảnh ấm áp, thơ mộng.
  • Cảnh đêm liên hoan, cảnh sông nước như được phủ lên màn sương huyền thoại.

Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng:

  • Nhà thơ không che giấu cái bi, nhưng bi mà không lụy. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng để thành chất bi tráng.
  • Người lính Tây Tiến luôn hiên ngang, bất khuất mặc dù chịu mất mát, đau buồn. Cái chết cũng được tác giả bao bọc trong không khí hoành tráng. Trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ tráng lệ, người lính xuất hiện với tầm vóc khác thường.
  • Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ nhau, cộng hưởng với nhau để làm nên linh hồn, sắc diện của bài thơ, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của tác phẩm.

Câu 3: Hãy cho biết những nét nghệ thuật đặc sắc trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

* Gợi ý :

  • Dòng cảm xúc thiết tha, mãnh liệt.
  • Ngôn ngữ giàu chất tạo hình và giàu tính nhạc với âm điệu, nhịp thơ biến hóa linh hoạt.
  • Sự kết hợp hài hòa giữa giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn.
  • Từ Hán Việt gợi lên âm hưởng cổ kính ; những kết hợp từ độc đáo ; những từ ngữ in đậm dấu ấn đời lính tạo nên tính chân thực, cụ thể, vừa sinh động vừa hấp dẫn.
  • Giọng thơ thay đổi theo dòng cảm xúc, khi tha thiết bồi hồi với nỗi nhớ vời vợi, khi bừng lên với đêm hội núi rừng, khi lắng lại trong kỉ niệm bâng khuâng, khi trang nghiêm, bi hùng gắn với hình ảnh những đồng đội một thời chiến đấu và hi sinh.

Câu 4: Cảm nhận của anh, chị về đoạn thơ sau trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng :

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

* Gợi ý :

I. Khái quát:

– Đôi nét về tác giả, tác phẩm.

– Giới thiệu về đoạn thơ : những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và miền sông nước Châu Mộc thơ mộng trữ tình.

II. Phân tích:

1. Kỉ niệm đêm liên hoan:

– Sau những chặng đường hành quân vất vả, những người lính Tây Tiến như bừng lên một sức sống mới trong đêm hội của núi rừng, bản làng. Đêm hội ấy được khắc họa với những nét tiêu biểu : ánh đuốc rực rỡ, âm thanh rộn ràng trong nhạc khèn lên man điệu.

– Câu cảm “Kìa em” vang lên trong một niềm vui ngỡ ngàng đầy trìu mến, kết hợp với động từ “bừng” có sức gợi tả, gợi cảm cao thể hiện được những tình cảm, cảm xúc đang thăng hoa, trào dâng mãnh liệt.

-“Em” vừa thơm hương kỉ niệm trong bát xôi nếp ngày nào bỗng rực rỡ sáng ngời trong xiêm áo. Biên giới xa xôi được nối lại gần trong tình cảm quân dân thắm thiết và bao cảm xúc tưng bừng của tuổi trẻ. Quá khứ như đang sống dậy rộn ràng trong tâm hồn Quang Dũng rồi cất cao thành những lời thơ cháy bỏng, chan hòa trong bao âm thanh, sắc màu của đêm hội năm xưa.

2. Kỉ niệm về chặng đường hành quân qua Châu Mộc:

– Giọng thơ có sự lắng lại khi không gian được trải rộng mênh mông.

– Cả cây lau, sông nước, chiều sương, thuyền độc mộc xuôi dòng theo cánh hoa trôi đều phảng phất, man mác trong lưu luyến bâng khuâng.

– Nếu ở trên tưng bừng rộn rã một sức sống thì ở đây tha thiết một tâm tình mỗi lúc một hiện rõ dẫu cảnh vật mông lung, thưa thớt, nhạt nhòa. Bên cạnh đó là lời hỏi, lời gọi chân tình : “có nhớ”, “có thấy”. Nhà thơ không chỉ khắc họa được vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn tái hiện được cả linh hồn của cảnh vật.

– Bức tranh sông nước miền tây nên thơ, trữ tình được khắc họa với bút pháp miêu tả chấm phá hòa lẫn cùng tình người đã và đang xa cách càng trở nên ấn tượng và gợi cảm.

3. Đánh giá:

– Hai đoạn thơ như hai nhịp của một trái tim đang đong đầy những yêu thương, lưu luyến, gắn bó không rời với đất với người giúp ta thấy rõ hơn nét đẹp tâm hồn của tác giả nói riêng và của người lính nói chung.


Câu 5: Cảm nhận của anh, chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ sau :

Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc

Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

(Quang Dũng, Tây Tiến)

* Gợi ý :

I. Khái quát:

– Đôi nét về tác giả, tác phẩm.

– Giới thiệu về đoạn thơ : những chiến sĩ Tây Tiến dũng cảm, kiêu hùng và đầy hào hoa, lãng mạn.

II. Phân tích:

1. Chân dung người lính Tây Tiến:

– Các chi tiết tả thực “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” đã khắc họa được diện mạo của người lính Tây Tiến, đồng thời phản ánh hiện thực về những gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật nơi chiến trường miền tây. Nhà thơ không hề né tránh những khó khăn gian khổ mà người lính gặp phải trong buổi đầu chống Pháp, cách nói của nhà thơ cho ta cảm giác ông đang tô đậm, nhấn mạnh cái vẻ ngoài khác thường của họ.

– Đối lập với vẻ ngoài ốm yếu xanh xao đó là tinh thần mạnh mẽ, hình ảnh “dữ oai hùm” đã nói lên được điều ấy : vẻ dũng mãnh như hổ báo chính là kết quả của lòng yêu nước, căm thù giặc mãnh liệt.

2. Tâm hồn, khí phách : hào hoa, lãng mạn, kiêu hùng.

– Không chỉ “dữ oai hùm”, “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” đã tô đậm khí thế, quyết tâm của họ.

– Vất vả, gian lao nhưng vẫn luôn nghĩ về quê nhà, mơ về Hà Nội với những giấc mơ hào hoa và lãng mạn. Chính những điều tưởng chừng như đơn giản ấy lại là một động lực tiếp thêm sức mạnh cho họ trên đường hành quân gian lao, giúp họ có thể trụ vững trong hiện tại khốc liệt.

3. Lí tưởng sống cao đẹp.

– Nhà thơ đã không trốn tránh khi nói đến hiện thực đau thương mặc dù đã có sử dụng biện pháp nghệ thuật nói giảm (“thay chiếu”, “về đất”) : hi sinh không có một manh chiếu để chôn, người chiến sĩ nằm xuống với chính chiếc áo bạc phai đời lính ; hình ảnh những nấm mồ vô danh đó rải rác khắp biên cương nơi xứ lạ. những từ Hán Việt như “biên cương”, “viễn xứ” đã làm tăng thêm sự thành kính trân trọng với người đã khuất và khiến giọng thơ dẫu có làm lòng người ngậm ngùi thương xót nhưng vẫn cất cao âm hưởng hào hùng, bi tráng.

– Sau những đau thương mất mát, những câu thơ sau chuyển giọng, cách ngắt nhịp thay đổi, âm vang mạnh mẽ để phản ánh lí tưởng cao đẹp : vì nước quên mình sẵn sàng hiến dâng tuổi xuân cho Tổ quốc. “Chẳng tiếc đời xanh” như một lời khẳng định hùng hồn của người trai thời loạn.

– Sự hi sinh của những người lính dẫu để lại nhiều day dứt, xót xa nhưng với cách nói giảm nhẹ “anh về đất” khiến ta có cảm giác sự ra đi này trở nên thanh thản, nhẹ nhàng lạ thường. Những người con ưu tú của đất nước, những người anh hùng của thời đại như vừa hoàn thành xong một chặng hành trình dài : quyết tử cho tổ quốc quyết sinh – xong nhiệm vụ anh trở về với vòng tay rộng mở bao la của đất mẹ trong tiếng sông Mã gầm vang đưa tiễn. Câu thơ diễn tả sự hi sinh thầm lặng mà cao cả, cái chết nhẹ nhàng, thanh thản mà gây xúc động lớn lao trong lòng người, làm lay động cả thiên nhiên. Nỗi bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm, rồi bị át hẳn trong tiếng gầm vang dữ dội của con sông khiến bài thơ mang âm hưởng anh hùng ca, thấm đẫm tinh thần bi tráng, hào hùng.

4. Đánh giá:

– Khổ thơ đã dựng nên một tượng đài bất tử về người lính. Người chiến sĩ Tây Tiến hào hoa, anh dũng, kiêu hùng một thời đã gây nên ân tượng sâu sắc cũng như mối xúc động lớn lao cho bao thế hệ người đọc. Hình tượng ấy dù vẫn có những hi sinh mất mát nhưng vượt lên tất cả vẫn là một khí phách hiên ngang, một khát vọng, lí tưởng sống cao đẹp đáng trân trọng. Đây cũng chính là chất bi tráng của tác phẩm.

Câu 6: Vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

* Gợi ý :

I. Khái quát:

– Đôi nét về tác giả, tác phẩm.

– Giới thiệu vẻ đẹp của người lính Tây Tiến trong bài thơ.

II. Phân tích:

1. Một biểu tượng thương nhớ:

– Người lính hiện về trong hồi ức như một biểu tượng xa vời trong không gian và thời gian (“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi”… “Tây Tiến người đi không hẹn ước” – “Đường lên thăm thẳm một chia phôi” – “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”) nhưng vẫn là những hoài niệm không dứt, một nỗi thương nhớ mênh mang (“nhớ về”, “nhớ chơi vơi”).

2. Vẻ đẹp trong đời sống tâm hồn:

– Người lính được miêu tả rất thực trong những sinh hoạt cụ thể, với những bước đi nặng nhọc trên đường hành quân cùng với những đói rét về bệnh tật, vẻ tiều tụy trong hình hài song rất phong phú trong đời sống tâm hồn, với những khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ (“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”…).

– Họ nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng, với những cảnh sắc độc đáo rất tinh tế (“hồn lau nẻo bến bờ”, “dáng người trên độc mộc”, “dòng nước lũ”, “hoa đong đưa”).

– Tâm hồn người lính cháy bỏng những khát vọng chiến thắng, đồng thời cũng ôm ấp những giấc mơ đẹp về tình yêu tuổi trẻ (“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới” – “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”). Trong cái nhìn của người lính trẻ, vẻ đẹp của người con gái núi rừng có nét hoang sơ, kiều diễm đến sững sờ (“Kìa em xiêm áo tự bao giờ”).

3. Sự hi sinh đầy bi tráng.

– Người lính hiện lên chân thực, thơ mộng, lãng mạn, đa tình, đa cảm đồng thời cũng rất hào hùng. Với nhiều từ ngữ mang sắc thái cổ điển, trang trọng (“Áo bào thay chiếu anh về đất” – “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”), tác giả tạo được không khí thiêng liêng, làm cho cái chết bi tráng của người lính vang động cả thiên nhiên. Âm hưởng bốn câu thơ cuối bài ngân dài không dứt, hòa cùng với bước đường của người chiến sĩ tình nguyện lên đường vì đất nước :

Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

– Mùa xuân Tây Tiến ngày ấy đã mang tuổi xuân của người lính trong cuồn cuộn lãng du, nhưng cái hồn bi tráng, sự hi sinh cao cả ấy dù chia phôi thể xác nhưng tinh thần là bất tử. Đó là tinh thần của một thế hệ kiêu hùng – nồng nàn tình yêu nước. Vẻ đẹp ấy, mãi mãi là khúc vọng thanh âm vang trong tâm hồn người Việt.


Xem thêm:

Ngữ liệu liên hệ, so sánh mở rộng.

1. Phân tích câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”, ta có thể liên hệ đến thơ Lí Bạch:

– Câu thơ ngắt nhịp 4/3, từ “dốc” điệp lại ở đầu 2 vế câu thể hiện sự trùng điệp, chồng chất, nối tiếp như tới vô tận của những con dốc, cũng phần nào gợi ra những nỗi nhọc nhằn của người lính trên đường hành quân: Con dốc này chưa qua, con dốc khác lại đợi sẵn, núi rừng miền Tây như muốn thử thách nghị lực của các anh. Sự hiểm trở của dốc núi miền Tây đã hiện ra trong ý nghĩa tạo hình của biểu cảm của các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”.

– Từ láy “khúc khuỷu” miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh ngay dưới chân chiến sỹ, còn từ láy “thăm thẳm” lại gợi độ cao, độ xa vời vợi khi đưa mắt nhìn tiếp con đường hành quân vẫn cheo leo ngút ngàn như không cùng, con đường lên miền Tây quả là: “Nan ư hướng thiên thanh” (khó như lên trời xanh) trong thơ Lý Bạch.

2. Phân tích hai câu thơ “Anh bạn dãi dầu không bước nữa /Gục lên súng mũ bỏ quên đời”, ta có thể liên hệ đến những câu thơ trong bài “Trăng trối” của Tố Hữu:

Từ láy “dãi dầu” đã thể hiện tất cả những vất vả nhọc nhằn của các anh khi hành quân qua miền Tây, khi phải vượt qua những núi cao vực thẳm, những thác ghềnh dữ dội, những sương gió nắng mưa.

Hai câu thơ tựa như một bức ký họa đầy ấn tượng về người lính. Có thể hiểu đây là hình ảnh người lính phong trần buông mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút dừng chân, một giấc ngủ mệt nhọc, vô tư, trẻ trung. Cũng có thể hiểu đây là câu thơ miêu tả thực tế đau xót trên chiến trường khi người lính kiệt sức, gục ngã, không thể bước tiếp cùng đồng đội. Cũng có thể thấy người lính quỵ xuống khi đang đi giữa hàng quân nhưng “súng mũ” vẫn bên mình – như vậy là dù không vượt qua được khó khăn nhưng anh cũng không thoái lui, chùn bước, không đầu hàng khó khăn, không rời bỏ đội ngũ. Và nhất là hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh đã được Quang Dũng biểu hiện bằng cách nói thật lãng mạn để qua đó làm hiện lên không phải khó khăn mà là tinh thần dũng cảm vượt lên khó khăn. Đó chính là vẻ đẹp hào hùng của người chiến binh Tây Tiến – vẻ đẹp của những anh lính cụ Hồ đã từng được Tố Hữu ngợi ca trong bài thơ “Trăng trối” :

“Vui vẻ chết như như cày xong thửa ruộng.
Lòng khỏe nhẹ anh dân quê vui sướng
Nằm trên liếp cỏ ngủ ngon lành”

3. Phân tích câu thơ: “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”, ta có thể liên hệ:

Sau khi vượt qua dốc núi gập ghềnh, gian khổ, người lính đã đặt chân đến tầm cao vời vợi của núi non:

“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

Trong phép đảo ngữ, từ láy “heo hút” được đặt lên đầu câu nhấn mạnh sự hoang sơ, tiêu điều, xa vắng của cảnh vật. Trên đỉnh dốc núi kia dường như là thiên nhiên nguyên thủy, không có sự xuất hiện của con người nên mới “heo hút” đến thế.

“Cồn mây” – cách kết hợp từ thú vị gợi liên tưởng về những đám mây chất chồng, trùng điệp và con đường hành quân như lẫn vào mây, bước chân người lính như đạp lên mây trời. Câu thơ vừa tạo ấn tượng về dốc núi cheo leo, hiểm trở, hoang vu vừa mang lại ấn tượng về tầm vóc hào hùng của người chiến sĩ – tầm vóc lớn lao sánh ngang cùng trời đất. Nhà thơ Vũ Quần Phương còn cho rằng hình ảnh “súng ngửi trời” là: “Trung tâm hùng tráng của bức tranh hiểm trở, bởi ở chỗ cao ấy có con người”. Tư thế chinh phục đỉnh cao hiên ngang giữa mây trời ấy khiến ta nhớ đến anh chiến sĩ trong thơ Tố Hữu:

“Rất đẹp hình anh lúc ráng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang reo với gió đèo”

4. Phân tích 2 câu thơ: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”, có thể liên hệ:

“Chiều chiều” và “đêm đêm” là những khoảnh khắc yên tĩnh nhất của đại ngàn. Chính sự tĩnh mịch của rừng núi sâu thẳm lúc chiều buông đêm xuống càng làm cho tiếng thác đổ, tiếng cọp gầm càng trở nên rùng rợn. Chất phương xa xứ lạ của miền biên giới đã được tô đậm trong những câu thơ này. Cách phối thanh có “thác”, “thét” mang thanh sắc ở câu trên gợi âm thanh tiếng thác nước man dại nơi vòm cao thăm thẳm, và “hịch”, “cọp” mang thanh nặng ở câu dưới lại như mô phỏng bước chân nặng nề của thú dữ. Câu thơ tô đậm sự dữ dội, hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây.

Sự bí hiểm, dữ dội ấy như ngự trị muôn đời nơi đây qua cách nhà thơ sử dụng các trạng ngữ chỉ thời gian miên viễn, vĩnh hằng. “Chiều chiều” và “đêm đêm” là những điệp từ chỉ thời gian lặp lại gợi ấn tượng về sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp của núi rừng miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là chiều chiều, đêm đêm. Câu thơ của Quang Dũng có nét tương đồng với những vần thơ trong “Từ đêm 19” của Khương Hữu Dụng:

“Đây cao vòi vọi dốc ông Mạnh
Đây ầm ầm đổ thác không tên
Có suối chân hùm vừa để dấu
Có lùm cây vút tuyệt đường chim”

5. Phân tích câu thơ: “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy..”, ta có thể liên hệ:

Ngòi bút của Quang Dũng thực sự có thần khi chấm phá một vài nét mà gợi ra cả một bức tranh thiên nhiên đẹp như trong cổ tích. Trong làn sương chiều bảng lảng, tất cả trở nên mơ màng, huyền ảo. Cảnh sắc nhòa mờ như những nét vẽ đậm chất cổ trang trên phiến lụa. Bức tranh thiên nhiên qua một vài nét phác thảo có dáng người thấp thoáng, có hồn lau nẻo bến bờ, có cánh hoa đong đưa bên dòng nước lũ.. đã mang đến ấn tượng về cái hồn rất riêng của chiều sương Châu Mộc. Vẻ đẹp của thiên nhiên Châu Mộc say đắm lòng người cũng đi vào trang thơ Tố Hữu với những vần thơ thật đẹp:

“Nông trường Châu Mộc như hoa nở
Giữa núi rừng Tây Bắc hát ca”

6. Phân tích câu thơ: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”, ta có thể liên hệ:

Bức tranh thơ mộng ấy càng trở nên đẹp hơn, tình tứ hơn khi Quang Dũng điểm thêm vào dòng nước đang chảy xiết những bông hoa rừng duyên dáng:

“Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

Phát huy tối đa hiệu quả của bút pháp tương phản trong thơ lãng mạn, câu thơ đã vẽ lên hai nét vẽ đối lập: “Hoa” – “nước lũ”.

Nói đến nước lũ là nói đến sự dữ dội, cuồng loạn. Còn hoa lại gợi nét đẹp mong manh, yếu đuối. Thế nhưng, bất chấp sức mạnh cuồng loạn, dữ dội của thiên nhiên, đóa hoa rừng vẫn dập duềnh theo sóng nước một cách đầy duyên dáng.

Quang Dũng không viết “đung đưa”, mà dứt khoát phải là “đong đưa”. Vì “đung đưa” chỉ gợi sự chuyển động cơ học, còn “đong đưa” lại gợi bao nhiêu tình tứ.. Dưới con mắt người nghệ sĩ đa tình, đến cả bông hoa rừng bên dòng nước lũ cũng không hề vô tri, vô giác, ngược lại chúng còn biết làm duyên, làm dáng, gợi cảm và đáng yêu. Cái đẹp kiêu hãnh mà gợi tình của thiên nhiên Tây Bắc đã được Quang Dũng tô đậm trong câu thơ này. Người đọc không khỏi bâng khuâng nhớ đến một tứ thơ lãng mạn:

“Cảnh vĩ đại nghiêng trời thác ngàn đổ
Nét mong manh thấp thoáng cánh hoa bay”

(Thế Lữ)

7. Phân tích hai câu thơ: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới /Đêm mơ Hà Nội dáng kiềm thơm”, ta có thể liên hệ như sau:

Bức tượng đài chiến sỹ Tây Tiến không chỉ có nét ngang tàng oai phong trong dáng vẻ uy nghi dữ dội mà còn được thể hiện ở chiều sâu đẹp đẽ trong tâm hồn:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiềm thơm”

“Mắt trừng” là ánh mắt mở to hướng thẳng về phía trước, ánh mắt ngời lên ý chí chiến đấu, khát vọng chiến thắng, cái khát vọng gửi trong mộng chiến trường, giấc mộng cao đẹp của những người trai thời loạn. Ánh mắt ấy thực chất là một hình ảnh ước lệ của cảm hứng lãng mạn nhằm tôn thêm sự oai phong lẫm liệt trong dáng vẻ, nét kiêu hùng ngạo nghễ trong tâm hồn những người lính có lý tưởng và khát vọng lớn lao, ra đi vì nghĩa lớn như những tráng sỹ xưa:

“Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu vị ào ào gió thu”.

Những chàng trai Hà Nội ra đi vì sức vẫy gọi mãnh liệt của lý tưởng song trái tim của họ vẫn dành một góc lưu luyến nhớ nhung về “Hà Nội dáng kiều thơm”. Theo cấu trúc câu, có thể hiểu người lính miền viễn xứ khi xa quê vẫn mơ màng nhớ về Hà Nội, nhớ về thủ đô hoa lệ đẹp như một dáng kiều thơm, cũng có thể hiểu theo một cách rất lãng mạn đó là nỗi nhớ về những thiếu nữ Hà thành với vóc dáng đáng yêu, kiều diễm. Qua hình ảnh ẩn dụ về “dáng kiều thơm”, câu thơ đã gợi tả vóc dáng sắc hương những cô gái Hà Nội hào hoa thanh lịch trong nỗi nhớ nhung của người lính xa nhà.

Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng: “Hai câu thơ như chứa đựng cả hai thế giới”. Sự tương đồng trong hai nét nghĩa của “mộng” và “mơ”, sự tương phản của hai thế giới nghĩa chung và tình riêng đã làm nên vẻ đẹp toàn vẹn cho tâm hồn người lính: Họ không chỉ có lý tưởng cao cả, ý chí kiên cường, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn mà còn là những chàng trai lãng mạn mộng mơ có trái tim chan chứa tình yêu thương.

Cũng như hình ảnh:

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”

trong sáng tác mùa thu trước Cách mạng, và sau đó là người lính trong kháng chiến chống Pháp:

“Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

những chàng trai Hà Nội trong đoàn quân Tây Tiến cũng thật lãng mạn, kiêu hùng, tình yêu thương trở thành động cơ đẹp đẽ để họ ra đi chiến đấu vì những điều yêu thương, đó là những nét khắc họa chân thực, cảm động về cả một thế hệ người Việt Nam dằn lòng gạt tình riêng ra đi vì nghĩa lớn.

8. Phân tích câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” ta có thể liên hệ:

Chiến tranh đồng nghĩa với tốn thất, hi sinh. Người xưa đã từng nói:

“Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” (Xưa nay chinh chiến mấy ai trở về)

Là một nhà thơ mặc áo lính, Quang Dũng hiểu sâu sắc hơn ai hết về điều đó. Hàng ngày phải đối mặt với những tổn thất, hi sinh, ông hiểu ranh giới giữa sự sống, cái chết vô cùng mong manh, và ông đã không né tránh hiện thực đó:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”

Câu thơ đem đến một cảm giác buồn bã, ảm đạm về cái chết. Có thể nhận ra một nét nghĩa tương đồng trong cả bốn từ của câu thơ khi tất cả đều ít nhiều gợi tới sự xa xôi: “Rải rác” gợi ra hình ảnh của những nấm mồ nằm xa nhau dọc đường hành quân, “biên cương” là nơi cuối cùng của đất nước, cũng có thể coi là “viễn xứ”, xứ xa; “mồ” là hình ảnh của cái chết gợi sự chia lìa xa cách của tử biệt sinh ly, của sự sống và cái chết, của cõi dương và cõi âm, của những nấm mồ miền viễn xứ với những người thân yêu chờ đợi nơi quê nhà.. Những nét nghĩa ấy cộng hưởng lại với nhau hướng tới miêu tả một thực tế: Rất nhiều cái chết, rất nhiều nấm mồ của những con người xa quê nằm lại miền viễn xứ – có lẽ đó chính là nguyên nhân đưa đến cảm giác ảm đạm lạnh lẽo cho cả câu thơ.

9. Phân tích câu thơ: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, ta có thể liên hệ:

Và cảm giác ảm đạm ngậm ngùi trong câu thơ thứ nhất đã nhanh chóng được xóa đi bởi tứ thơ mạnh mẽ, rắn rỏi như một lời tuyên thệ trong câu hai:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Hình tượng thơ đậm nét bi tráng, phảng phất hình ảnh những tráng sỹ xưa: “Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao”, những con người sẵn sàng gạt tình riêng ôm chí lớn “ra đi không vương thê nhi”. Cũng với cách diễn đạt chủ động trong kiểu câu phủ định, câu thơ đã tô đậm lý tưởng cao cả và khí phách kiên cường của những người chiến sỹ anh hùng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

“Đời xanh” là hình ảnh ẩn dụ cho tuổi thanh xuân, thời gian đẹp nhất trong đời, quãng thời gian một đi không trở lại; nhịp đi liền mạch trong câu thơ “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” cho thấy ý chí quyết tâm cao độ của những người thanh niên ưu tú sẵn sàng hiến dâng cuộc đời và tuổi thanh xuân, cũng có nghĩa là sẵn sàng hiến dâng phần đời đẹp nhất cho đất nước, đó cũng là tâm nguyện, là ý chí cao đẹp của những người thanh niên Việt Nam thời chống Mỹ đã được Thanh Thảo thể hiện trong những câu thơ chânh thành, xúc động:

“Chúng tôi đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc”

Đó là vẻ đẹp của những con người mang trong mình tình yêu Tổ quốc lớn lao, cao cả:

“Ôi Tổ quốc! Ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng
Ôi Tổ quốc! Nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi, con sông”

(Chế Lan Viên)

10. Phân tích hai câu thơ cuối: “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, ta có thể liên hệ:

Những năm tháng ngắn ngủi sống trong đoàn binh Tây Tiến đã để lại trong lòng nhà thơ những hoài niệm không thể phai mờ. Bài thơ kết lại bằng lời nhắn nhủ da diết:

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

Có thể hiểu nhà thơ đang thể hiện một tâm nguyện âm thầm mà thủy chung son sắt của tất cả những “ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy” – trong lòng họ, thời gian gắn bó với trung đoàn, với miền Tây từ mùa xuân ấy là những thời gian quý giá nhất trong đời, những thời gian vời vợi nhớ thương. Dù có thể chia xa nhưng tâm hồn những người lính Tây Tiến sẽ mãi mãi ở lại với miền Tây, với Sầm Nưa, Pha Luông, Mường Hịch.. những vùng đất xa xôi đựng đầy kỷ niệm với đồng đội, với trung đoàn Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ hào hùng bởi:

“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”

(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang