phan-tich-bai-tho-tieng-hat-con-tau-cua-nha-tho-che-lan-vien-12714-2

Phân tích bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên

Phân tích bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên

  • Mở bài:

Chế Lan Viên là một trong những nhà thơ lớn và độc đáo nhất, có đóng góp quan trong đối với sự phát triển của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng – triết lý. Chất suy tưởng triết lý mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa. Chế Lan Viên khai thác triệt để các tương quan đối lập. Nổi bật nhất là năng lực sáng tạo hình ảnh phong phú, độc đáo nhiều ý nghĩa biểu tượng. “Tiếng hát con tàu” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Chế Lan Viên sau cách mạng: trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái “tôi” trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống.

  • Thân bài:

“Tiếng hát con tàu” lấy cảm hứng từ một sự kiện kinh tế – xã hội ở miền Bắc. Đó là cuộc vận động nhân dân miền xuôi đi khai hoang và phát triển kinh tế ở Tây Bắc những năm 1958 – 1960. Toàn bộ bài thơ là sự vận động tâm trạng của nhân vật trữ tình: đoạn đầu là lời giục giã với những câu hỏi dồn dập, tăng tiến; đoạn 2 là lời bày tỏ trực tiếp tình cảm dòng hoài niệm đầy ân tình về nhân dân trong những năm kháng chiến. Xen vào dó là những chiêm nghiệm đời sống được đúc kết trong giọng thơ trầm lắng. Đoạn cuối mang âm hưởng của khúc hát lên đường vừa dồn dập, lôi cuốn, vừa bay bổng , say mê.

“Tiếng hát con tàu” thể hiện tình cảm hướng về nhân dân, về đất nước với những kỷ niệm sâu nặng, nghĩa tình trong cuộc kháng chiến chống Pháp; cũng là hướng về với cội nguồn sáng tạo của thơ ca. Từ đó kêu gọi, cổ vũ mọi người đi xây dựng Tây Bắc, đi xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Ý nghĩa nhan đề và bốn câu đề từ.

Tây Bắc ư ? Có gì riêng Tây Bắc
Khi lòng ta  đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu…

“Tiếng hát” là niềm hân hoan, say sưa của tâm hồn trên hành trình đến với nhân dân, đất nước. “Con tàu” là biểu tượng cho khát vọng đi xa, thoát khỏi cuộc sống cá nhân chật hẹp, đến những nơi xa xôi của Tổ quốc, cũng là đến với những ước mơ lớn và nguồn cảm hứng lớn của nghệ thuật. Hình ảnh con tàu là biểu tượng cho khát vọng lên đường, vượt ra khỏi cuộc sống chất hẹp, quẩn quanh để đến với cuộc đời rộng lớn.

Tây Bắc vừa là địa danh cụ thể, vừa là biểu tượng. Tây Bắc ngoài ý nghĩa cụ thể chỉ địa danh một vùng đất xa xôi, còn là một biểu tượng cho những miền xa xôi của Tổ quốc, cho nhân dân, đất nước. Đối với nhà thơ, Tây Bắc”còn là biểu tượng cho hiện thực cuộc sống rộng lớn, phong phú, ngọn nguồn sáng tạo của thi ca

“Tiếng hát” là cảm xúc vui tươi, hứng khởi, say mê của nhà thơ, là  tiếng hát của một hồn thơ đã tìm thấy chân trời nghệ thuật của mình trong đời sống của nhân dân, đất nước.

“Tiếng hát con tàu” là tiếng hát của một tâm hồn khao khát được đi xa, khao khát với cuộc sống rộng lớn, xây dựng đất nước.

“Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu” là khi nhà thơ đã hòa quyện giữa cái khách quan và chủ quan, giữa cái tôi và cái ta, của tâm hồn nhà thơ với con người Tây Bắc, với hiện thực vĩ đại – ngọn nguồn sáng tác của thi ca. Chế Lan Viên hành trình đến với nhân dân, đến với cuộc đời rộng lớn, cũng là sự trở về với chính tâm hồn mình. Đó là sự diễn đạt thông minh, sắc sảo để thể hiện sự hòa nhập tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của người nghệ sĩ với cuộc đời rộng lớn của nhân dân, đất nước.

Cuộc chất vấn của nhà thơ với chính lòng mình, cũng là sự trăn trở hối thúc, tự giục giã lên đường:

Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng”

Nhà thơ tự phân thân để tự chất vấn mình trước nhiệm vụ của thời đại. Cách này rất thích hợp cho những trăn trở, băn khoăn trong dòng độc thoại nội tâm. Trong khi biết bao con người đang hăng say lao động dựng xây đất nước; khi bao lớp văn nghệ sỹ lên đường tìm cảm hứng sáng tác ngợi ca con người mới, cuộc sống mới thì Chế Lan Viên vẫn chưa thể đến với những vùng đất xa xôi này, chưa thể bước chân lên con tàu mộng tưởng. Tiếng rú gọi của cuộc đời lớn đang thúc bách ở ngoài kia. Nhà thơ lắng nghe những vang vọng mãnh liệt của cuộc đời mà thấy rạo rực muốn bước chân đi tìm.

Ông lắng nghe tiếng gọi khát khao của những không gian mênh mông phóng khoáng với ào ạt gió ngàn, cảm nhận sự nghèo nàn, khô cạn của cảm xúc nghệ thuật khi “tàu đói những vành trăng” mơ mộng, nhà thơ đã nhận thức sâu sắc “chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép”. Từ những nhận thức và cảm xúc ấy thi nhân hiểu rằng đến với cuộc đời, với nhân dân, đất nước là cần thiết, là lẽ sống của thi ca:

“Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”

Đó là nỗi trăn trở, day dứt,khát vọng lên đường mãnh liệt của một tâm hồn khát khao mãnh liệt được hòa nhập với đời sống, với nhân dân, đất nước, khao khát những chuyến đi xa tới những chân trời mới là để mình thực là mình, để tìm cảm hứng sáng tạo trong thi ca.

“Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay rạt rào đã chín trái đầu xuân.”

Trước hết, Tây Bắc được gợi nhớ như một xứ sở thiêng liêng anh hùng. Tây Bắc lưu giữ những kỷ niệm sâu sắc thời kháng chiến, nó giúp Chế Lan Viên tìm lại chính mình. Mười năm ấy là mười năm kháng chiến, mười năm nằm gai nếm mật, mười năm kiên trì anh dũng chiến đấu cho đến ngày chiến tháng. Trở về với Tây Bắc là trở về với chốn cũ nghĩ tình thủy chung. Trở về với Tây Bắc còn là sự tri ân, cảm phục và thành kính đối với vùng đất linh thiêng, anh hùng, cũng là với nhân dân, những con người bình dị đã làm nên cuộc kháng chiến oanh liệt, hào hùng

Đối với Chế Lan Viên, một nhà thơ Mới, đó là một hành trình vĩ đại đi từ cái tôi đến cái ta, từ cá nhân đến với đất nước, từ thung lũng đau thương đến với cánh đồng sáng. Tây Bắc trong kháng chiến là miền đất và những năm tháng không thể nào quên. Đó là nơi mà hiện thực vĩ đại của kháng chiến đã tác động mãnh liệt đến sự chuyển biến cuộc đời và sự nghiệp nghệ thuật của họ trong hành trình đến với nhân dân, đất nước và cách mạng. Đó là nơi mà nhà thơ tự lột xác, tự chia tay với cái tôi siêu hình trong thế giới điêu tàn xa xưa của mình để hòa nhập với cái ta chung của đời mới.

Tây Bắc còn là ngọn nguồn của nghệ thuật. Nghệ thuật phải khỏi phát từ cuộc sống và chiến đấu của nhân dân. Nhiệm vụ của nghệ thuật là phản ánh và ngợi ca cuộc chiến anh hùng ấy. Những thành tựu có được hôm nay đều được khởi phát từ ngày hôm qua, bởi những con người lao động cần cù, anh dũng và kiên trung:

“Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại mẹ yêu thương”

Thời gian của cuộc kháng chiến được hữu hình hóa qua hình ảnh so sánh với ngọn lửa thiêng bất diệt. Đó là ngọn lửa của lòng yêu nước và căm thù giặc, ngọn lửa của ý chí bất khuất kiên cường, ngọn lửa đã giúp nhân dân ta dân tộc ta chiến đấu và chiến thắng. Mối quan hệ giữa mười năm và nghìn năm càng khẳng định tính chất vĩnh hằng của những giá trị đẹp đẽ, những phẩm chất cao quý của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến gian khổ hào hùng. Ngọn lửa thiêng soi đường cho dân tộc “nghìn năm sau” ấy là ngọn lửa soi đường dẫn lối cho nhà thơ về với nhân dân, cho thi ca đến với cuộc đời.

Đoạn thơ đã bộc lộ niềm thành kính và lòng biết ơn sâu nặng của Chế Lan Viên với miền đất thiêng Tây Bắc và những năm tháng kháng chiến oanh liệt, hào hùng. Đó là mảnh đất, là năm tháng có ý nghĩa sâu sắc với cả dân tộc và đặc biệt là với riêng nhà thơ. Trưởng thành từ đó, nay thi nhân lại khao khát hướng về nguồn cội, cũng là thể hiện tâm nguyện đưa nhà thơ trở về với cuộc đời, về với nhân dân và đất nước.

Niềm khao khát mãnh liệt và niềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ khi trở về với nhân dân được thể hiện trong khổ thơ:

“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”

Sử dụng nhiều hình ảnh so sánh vừa đẹp, vừa thơ mộng, mượt mà, vừa có sự hoà hợp giữa nhu cầu của bản thân với hiện thực “trẻ thơ đói lòng gặp sữa; nôi ngừng gặp cách tay đưa” đã nhấn mạnh niềm hạnh phúc tột độ và ý nghĩa sâu xa của việc trở vè của nhan dân, không chỉ là niềm vui, niềm khao khát mà còn là một lẽ tự nhiên. Về với nhân dân là về với ngọn nguồn bất tận của sự sống, về với ngọn nguồn của sự sáng tạo nghệ thuật, về với những gì thân thiết, sâu nặng nhất của lòng mình

Hình ảnh nhân dân  trong kỉ niệm của nhà thơ được gợi lên hình ảnh của những con người cụ thể:

“Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con

Con nhớ em con, thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư

Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”

Với những điệp ngữ “con nhớ”, bài thơ như chồng chất, ăm ắp những kỉ niệm được gợi ra từ niềm hoài niệm về nhân dân của nhà thơ. Cách xưng hô của chủ thể trữ tình bộc lộ một tình cảm thân tình, ruột thịt với những con người đã từng gắn bó mật thiết với mình trong những năm kháng chiến. Qua đó ta thấy được những rung dộng sâu sắc, tha thiết, vừa say mê, mãnh liệt  của một hồn thơ trong những giây phút giác ngộ một chan lí đời sống và cũng là chan lí của nghệ thuật

Suy tưởng và triết lí của nhà thơ về quê hương, đất nước:

Từ những kỉ niệm, những hoài niệm về nhân dân, tác giả nâng lên thành những suy ngẫm, những chiêm nghiệm giàu sức khái quát, những chân lí được trải nghiệm của chính mình:

“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chi là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”

Từ những chi tiết, hình ảnh cụ trên: (bản làng, núi đèo ẩn hiện qua sương mờ, mây phủ), dẫn tới những suy ngẫm, triết luận: gợi lên biết bao những miền đất  chúng ta đã từng qua, làm sống dậy trong lòng vô vàn những kỉ niệm. Chính những kỉ niệm ấy đã bồi đắp, nuôi dưỡng và làm phong phú  tâm hồn ta

” Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.”

Tình yêu lấp lánh, rực rỡ những màu sắc, bồi hồi, xốn xang những xúc động. Tác giả đã diễn tả một cách hóm hỉnh và sâu sắc mối quan hệ khăng khít, sự gắn bó chặt chẽ giữa những người đang yêu. Tình yêu ở đây không chỉ giới hạn trong tình yêu lứa đôi mà  còn là sự kết tinh của những tình cảm sâu nặng đối với quê hương, đất nước

Với những câu thơ cô đúc như một châm ngôn, bài thơ “Tiếng hát con tàu” là một phát hiện sâu sắc về quy luật của tình cảm này không xuất phát, không lấy điểm tựa từ trí tuệ mà chủ yếu được kiến tạo trên cái nền của những xúc động trong tâm hồn mình, lắng nghe tiếng lòng của tâm hồn mình mà chiêm nghiệm ra một chân lí phổ quát của đời sống tình cảm con người. Chính vì thế triết lí được rút ra từ tình cảm, chân thành nên không khô khan mà vẫn tự nhiên, dung dị

Sáng tạo hình ảnh là nét đặc sắc của bài thơ:

“Tiếng hát con tàu” thể hiện nét đặc sắc của Chế Lan Viên: sáng tạo hình ảnh thơ đa dạng, phong phú; sử dụng đậm nét các biện pháp tu từ: ẩn dụ, hoán dụ, so sánh trùng điệp; nhiều liên tưởng phong phú, bất ngờ; lời Ihơ nhiêu tâng lớp ý nghĩa, cảm xúc găn với suy tưởng, tài hoa, giàu chất trí tuệ.

Những hình ảnh do quan sát được (bản ương giăng, đèo mây phủ, chim rừng lông trở biếc), có những hình ảnh được miêu tả cụ thể đến chi tiết: (Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách). Những hình ảnh thực nhưng lại giàu sức gợi: (Con nhớ mế ! Lửa hồng soi tóc bạc); những hình ảnh xây dựng thành những hình ảnh biểu tượng: con tàu, vầng trăng, suối lớn mùa xuân). Đó là những sáng tạo độc đáo, mới lạ, xâu chuỗi, liên kết với nhau bằng những liên tưởng bất ngờ, có chiều sâu trí tuệ

Giọng thơ giục giã, sôi nổi thể hiện rõ nét tình cảm dâng trào, tha thiết với nhân dân và đất nước. Các phép tu từ đặc sắc như ẩn dụ, so sánh được sử dụng rộng rãi, đa dạng làm nổi bật giá trị của bài thơ.

Bài thơ “Tiếng hát con tàu” là khúc hát vui say, chan chứa lòng biết ơn, niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi được “lên Tây Bắc”. Được trở về hòa nhập với biển lớn của nhân dân Ià được về vợi những kỷ niệm nghĩa tình trong kháng chiến chống Pháp (tình anh, em, mẹ…); được về với ngọn nguồn sáng tạo nghệ thuật. Từ sự suy nghĩ, trăn trở về bản thân, nhà thơ kêu gọi, thúc dục mọi người lên đường đi xâv dựng những vùng quê mới.

Với những hình ảnh mang đậm chất trí tuệ, với việc tạo ra một chuỗi so sánh trùng điệp giàu tính tượng trưng, bài thơ đã khẳng định vai trò lớn lao của người dân với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác, thể hiện sự biết ơn và niềm hạnh phúc của nhà thơ khi được trở về với nhân dân. Đưa thi ca trở về với nhân dân, nhà thơ như được hồi sinh, được tự do bay bổng sáng tạo trong bầu trời nghệ thuật thông thoáng, trong trẻo, được thanh thản bình yên trong chốn cũ an lành. Nhân dân thực sự là ánh sáng và phù sa cho sự nghiệp nghệ thuật của nhà thơ. Xuất phát từ những trăn trở hối thúc, từ niềm thành kính biết ơn, đoạn thơ đã thể hiện sinh động và sâu sắc khát vọng hướng về nhân dân, khẳng định mối quan hệ sâu sắc giữa cá nhân và cộng đồng, giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống.

  • Kết bài:

“Tiếng hát con tàu” không chỉ là lời mời gọi, giục giã lên đường trở về với cội nguồn mà còn là bài ca thể hiện lòng biết ơn nhân dân, biết ơn người đi trước để từ đó nhân thức sâu sắc việc xây dựng cuộc sống hôm nay là nhiệm vụ của mọi người.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang