Phân tích Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.
- Mở bài:
Nguyễn Trãi danh nhân văn hóa thế giới, ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Bên cạnh những tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật, còn có những tác phẩm giàu tính chiến đấu, và một trong những tác phẩm đó không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo. Tác phẩm là bản tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh đầy gian lao mà cũng vô cùng hào hùng của dân tộc.
- Thân bài:
Năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi huy hoàng, đã tiêu diệt viện binh của giặc. Lúc này, Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan để chờ hai đạo viện binh do hai tướng giỏi của nhà Minh chỉ huy là Liễu Thăng và Vạn Thạnh, nhưng hai đạo quân này đã bị quân ta chặn đánh, Vương Thông viết thư xin hàng và rút quân về nước. Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo” để tuyên bố với toàn dân về việc dẹp yên giặc Ngô. Đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, được ban bố vào đầu năm 1428.
Phần đầu của tác phẩm, Nguyễn Trãi nêu lên luận đề chính nghĩa: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Nhân nghĩa vốn được hiểu là lòng yêu thương con người. Nhưng với Nguyễn Trãi, yêu thương ấy phải được thể hiện bằng hành động cụ thể: “cốt ở yên dân”, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, mà trước hết là phải trừng trị kẻ có tội, bấy giờ chính là giặc Minh xâm lược. Như vậy, nhân nghĩa của ông xuất phát từ lòng yêu dân, mong cho dân có cuộc sống yên ổn. Đây là tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Trãi, đồng thời đây cũng là lần đầu tiên người dân xuất hiện với vị trí quan trọng trong văn kiện có tầm cỡ thời đại.
Phần tiếp theo, ông đưa ra năm yếu tố cơ bản để khẳng định sự tồn tại có chủ quyền của nước Đại Việt. Nền độc lập của ta được dựa trên: Cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, truyền thống lịch sử và chủ quyền riêng “mỗi bên xưng đế một phương”. Nguyễn Trãi đã hoàn thiện quan niệm về quốc gia, dân tộc. Đây là bước tiến dài so với bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất: Nam quốc sơn hà.
Sau khi nêu lên luận đề chính nghĩa, bằng giọng văn đanh thép Nguyễn Trãi đã vạch trần tội ác của giặc Minh. Để tố cáo tội ác của chúng, ông đứng trên lập trường dân tộc, sử dụng ngôn ngữ hết sức chuẩn xác: nhân, thừa cơ cho thấy luận điệu bịp bợm của giặc Minh: phù Trần diệt Hồ. Không chỉ vậy ông còn đứng trên lập trường nhân bản để tố cáo tội ác của kẻ thù khi chúng cai trị nhân dân ta. Chúng hủy hoại cuộc sống của con người bằng những hành động hết sức dã man: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ. Không dừng lại ở đó chúng còn hủy hoại môi trường sống của muôn loài cây cỏ; Các chính sách thuế khóa nặng nề, vơ vét cho bằng hết sản vật của nước ta, tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, tiêu diệt đường sống muôn loài. Chúng sử dụng dân ta như một công cụ để phục dịch cho chúng: người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,… Những tội ác của chúng thấu đất, vang tới tận trời xanh, không thể dung thứ: Lẽ nào trời đất dung tha/ Ai bảo thần nhân chịu được. Câu hỏi vang lên như một lời cảnh cáo, cũng thể hiện niềm đau xót của tác giả trước thảm cảnh mà nhân dân phải hứng chịu. Với những hình ảnh đối lập tương phản, giàu giá trị gợi cảm tác giả đã tố cáo một cách đanh thép nhất tội ác của kẻ thù.
Sau những lời văn thống thiết, nhưng cũng đầy mạnh mẽ, tiếp đến Nguyễn Trãi kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và thắng lợi tất yếu của quân dân ta. Trong những buổi đầu khởi nghĩa, tình thế quân ta hết sức khó khăn, quân thù đang vào thời điểm mạnh nhất, quân ta thì Tuấn kiệt như sau buổi sớm/ Nhân tài như lá mùa thu. Tương quan đó khiến cuộc khởi nghĩa càng trở nên khó khăn. Nhưng dưới sự lãnh đạo của người anh hùng Lê Lợi, quân ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Lê Lợi là người có lòng căm thù giặc sâu sắc: Ngẫm thù lớn há đội trời chung/ Căm giặc nước thề không chung sống và ông mang trong mình lòng quyết tâm lớn tiêu diệt quân xâm lược, mang lại bình yên cho nhân dân. Ông không chỉ coi trọng người hiền tài mà còn coi trọng vai trò của nhân dân: Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới. Tất cả người dân nhỏ bé, thấp kém nhất đều được tập hợp dưới ngọn cờ của Lê Lợi. Đây là lần đầu tiên người dân được đưa vào vị trí trang trọng đến vậy. Điều đó đã tạo nên sự thống nhất một lòng, đoàn kết toàn dân tộc. Chính sự đoàn kết đó đã đem lại hết thắng lợi này đến thắng lợi khác cho nhân dân ta: Đánh một trận, sạch không kình ngạc/ Đánh hai trận, tan tác chim muông/ Nổi gió to trút sạch lá khô/ Thông tổ kiến phá toang đê vỡ.
Lời tuyên bố chiến thắng, mở ra kỉ nguyên độc lập của dân tộc thật dõng dạc, tràn đầy niềm tự hào: Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới, đất nước ta bước vào thời kì tự chủ, thịnh vượng dưới triều đại mới. Đồng thời ông cũng rút ra những bài học lịch sử: Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh, để khẳng định niềm tin vào vận mệnh mới của dân tộc sau khi đã trải qua những cơn bĩ cực. Đồng thời ông cũng khẳng định, chiến thắng chúng ta có được là nhờ sự kết hợp sức mạnh của thời đại và sức mạnh truyền thống dân tộc: Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.
Văn bản là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và chất văn chương. Kết cấu văn bản chặt chẽ, lập luận vô cùng sắc bén, lời văn đanh thép tố cáo tội ác giặc, hùng hồn, hào sảng khi nói về chiến công của nhân dân ta. Nhưng bên cạnh đó cũng đậm chất văn chương nghệ thuật với những câu văn giàu cảm xúc, giàu hình tượng, giàu giá trị tạo hình, gây ám ảnh sâu sắc với người đọc.
- Kết bài:
Bình Ngô đại cáo là bài ca ngợi ca cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thần kì đã chấm dứt sự xâm lược của giặc Minh. Đồng thời cũng là bản tố cáo đanh thép, dõng dạc những tội ác mà giặc Minh phạm với nhân dân ta. Bên cạnh đó, bài cáo còn là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn bất hủ của muôn đời.
Bài làm 2:
- Mở bài:
Bình Ngô đại cáo là bài cáo viết bằng văn ngôn do Nguyễn Trãi soạn thảo vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định Vương Lê Lợi để tuyên cáo về việc giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự độc lập của nước Đại Việt. Đây được coi là một áng thiên cổ hùng văn một bản tuyên ngôn độc lập khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mở ra một triều đại huy hoàng trong lịch sử dân tộc, thể hiện luận điểm chính nghĩa là tư tưởng nhân đạo sâu sắc mà cốt lõi là tình yêu thương con người..
- Thân bài:
Tinh thần nhân văn được Nguyễn Trãi thể hiện trong bài trước hết nằm ở tư tưởng nhân nghĩa của ông, mở đầu tác phẩm ông đã thể hiện sự đấu tranh này là vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Nguyễn Trãi khẳng định nhân nghĩa là một nguyên lí có tính phổ biến, mặc nhiên thừa nhận thời bấy giờ:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Nhìn vào dòng chảy của lịch sử nhân loại thì ta thấy ngay “nhân nghĩa” mà Nguyễn Trãi nêu ở đây là một tiền đề có tính tiên nghiệm bởi tiền đề này có nguồn gốc từ phạm trù nhân nghĩa của Nho giáo, Nhân nghĩa vốn là một tư tưởng đạo Nho, là mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở của tình thương và đạo lí. Với bốn chữ “yên dân”, “trừ bạo”, Nguyễn Trãi đã nâng nó lên một tầm cao mới, trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý dân tộc có giá trị đến muôn đời: việc nhân nghĩa ở đời cốt là lo cho dân được ấm no, giúp cho dân được yên ổn. Nguyễn Trãi đã khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại – dân là nòng cốt, là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia. “Yên dân”, tức là làm cho cuộc sống của nhân dân được yên ổn, no đủ, hạnh phúc. Nhưng để được “yên dân” trước phải lo “trừ bạo”, có nghĩa phải vì nhân mà dám đứng lên diệt trừ bạo tàn, đánh tan quân xâm lược. Nhận xét về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Đối với Nguyễn Trãi, yêu nước là thương dân, để cứu nước phải dựa vào dân, và cứu nước để cứu dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi người. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chẳng qua là lòng yêu nước, thương dân: cái nhân cái nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng chống ngoại xâm diệt bạo tàn, vì độc lập của nước, hạnh phúc của dân”. Nguyên lí nhân nghĩa này được coi như bó đuốc lớn của thời đại lúc bấy giờ. Trong nhiều bức thư gửi cho tướng giặc, Nguyễn Trãi luôn khẳng định tư tưởng nhân nghĩa căn cốt, Trong “Thư số 8 – Gửi Phương Chính” Nguyễn Trãi đã từng viết: Thư gửi Phương Chính số 8: “Phàm mưu đồ việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, muốn nên công to, phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Phải có nhân nghĩa đầy đủ, thì công việc mới thành”. Bậc anh hùng ấy lo cho dân bằng tất cả tình thương tận sâu nơi đáy lòng. Dân giàu, nước mạnh, dân no đủ, nước thái bình, đây là giấc mơ Nguyễn Trãi luôn khắc khoải suốt cả cuộc đời dẫu cho cuộc đời ấy phải chịu nhiều đắng cay và oan khuất, hơn hết, nó còn là cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ đã đến lúc bật ra thành lời. Nếu giấc mơ kia là của bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc đại trí. Đó là tư tưởng nhân nghĩa đã được Nguyễn Trãi vạch rõ ngay trong hai câu mở đầu “Bình Ngô đại cáo”, một tư tưởng rất tiến bộ, tích cực, phù hợp với tinh thần của thời đại và cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Nguyễn Trãi đã đưa đến một tư tưởng đầy nhân văn để từ đó đem đến một khẳng định chân lí độc lập dân tộc. Bằng một giọng điệu hào hùng, tràn đầy khí thế với khẳng định nước Đại Việt là của chúng ta:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”.
Nguyễn Trãi đã rất tinh tế khi đã đưa ra các yếu tố cơ bản để xác định nền độc lập, chủ quyền của dân tộc: cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, nền văn hiến lâu đời. Nếu chỉ đưa vào đơn giản như vậy thì đâu có ý nghĩa, cái hay của áng “thiên cổ hùng văn” là sử dụng hàng loạt từ ngữ: “từ trước”, “vốn xưng”, “đã lâu”, “đã chia”, “cũng khác” để khẳng định quyền độc lập, chủ quyền của dân tộc ta một cách hiển nhiên, vốn có, lâu đời. Bên cạnh đó dân ta còn có bề dày lịch sử riêng, chế độ riêng với “hào kiệt không bao giờ thiếu”. Khí thế khi Nguyễn Trãi hùng hồn tuyên bố chủ quyền đất nước với quân giặc để rồi sau này, chúng ta gặp lại sự tự hào ấy trong thơ văn cách mạng của Nguyễn Đình Thi:
“Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta”
(Đất Nước)
Hay Tố Hữu cũng đã từng viết:
“Mây của ta, trời thắm của ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.”
Bên cạnh đó dân ta còn có bề dày lịch sử riêng, chế độ riêng với “hào kiệt không bao giờ thiếu”:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Đây là đoạn văn đã chạm khắc vào lịch sử dân tộc những giá trị bất khả xâm phạm về nền độc lập một cách đầy đủ nhất. Ông không chỉ dừng lại ở từ “ta” mà còn đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập: nước Việt ta có nền văn hiến tự bao đời, có núi sông bờ cõi, ranh giới đã phân định, có phong tục tập quán phong phú, có các triều đại sánh ngang với “Hán, Đường, Tống, Nguyên”, có nhân tài phò vua diệt giặc. So với trước đó, học thuyết về quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi phát triển cao hơn bởi tính toàn diện và sâu sắc của nó. Toàn diện vì ý thức về dân tộc trong “Nam quốc sơn hà” được xác định dựa trên hai yếu tố: lãnh thổ và chủ quyền còn đến “Đại cáo bình Ngô” ba yếu tố nữa được bổ sung: văn hiến, phong tục tập quán và lịch sử. Sâu sắc vì trong quan niệm về dân tộc, Nguyễn Trãi ý thức được “văn hiến” và “truyền thống lịch sử” mới là yếu tố hạt nhân để xác định dân tộc đó. Vả chăng sự sâu sắc của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở chỗ: điều mà kẻ thù xâm lược luôn tìm cách phủ định (văn hiến nước Nam) thì chính lại là thực tế, tồn tại với sức mạnh chân lý khách quan và đến nay học thuyết đó vẫn còn nguyên giá trị.
Chân lý chủ quyền dân tộc vang lên đầy khí thế và tự hào. Đó chính là nền móng vững trãi, là cơ sở pháp lí, lí luận xác đáng để Nguyễn Trãi tiếp tục lên án những kẻ bạo ngược đã cố ý xâm phạm chủ quyền nước ta, cho nên:
“Lưu cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi
Ô Mã xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”.
Bằng tài năng của mình Nguyễn Trãi đã sử dụng phép liệt kê, dẫn ra những kết cục của những kẻ xâm lược đi ngược lại với chân lí, tất yếu sẽ chuốc lấy thất bại: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô, Ô Mã, kẻ bị giết, kẻ bị bắt. Nguyễn Trãi lấy “chứng cứ còn ghi” để chứng minh cho sức mạnh của chân lý, sức mạnh của tư tưởng “thân dân” đồng thời đó cũng chính là niềm tự hào dân tộc. Lâm Ngũ đường cũng đã từng viết: “Văn chương bất hủ cổ kim đều viết bằng huyết lệ” khi viết về những câu văn liệt kê tội ác của quân giặc đối với ta, Nguyễn Trãi cũng đã đẫm lệ trên những trang văn của mình, sau khi hùng hồn khẳng định Đại Việt là một quốc gia độc lập, bản “tuyên ngôn” Bình Ngô đã đanh thép kết án tội ác của giặc Minh đã gieo rắc tai vạ cho dân ta trải suốt hai mươi năm trời. Từ âm mưu thâm độc đến những hành động man rợ, bạo tàn, trắng trợn mà Nguyễn Trãi đã viết trong căm hờn, uất nghẹn, ông xót xa trước những thảm cảnh mà “quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ” do “bọn gian tà bán nước cầu vinh”, chúng mang theo luận điệu xảo trá phù Trần diệt Hồ, nhằm bịp bợm nhân dân.
Chiến tranh đi qua đã để lại bao đau thương và mất mát. Với những chính sách, thủ đoạn hung bạo của nhà Minh đã khiến nhân dân ta phải rơi vào cùng cực cả về mặt thể chất lẫn tinh thần. Ngay cả tên nước ta cũng bị thay đổi, chia nước ta thành những quận huyện nhỏ. Qua ngòi bút chân thực của mình Nguyễn Trãi đã sử dụng những từ ngữ vô cùng chân thực như “nướng”, “vùi”, “dân đen”, “con đỏ”…nhằm chỉ ra những tội ác mà trời đất không thể dung tha:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Đọc từng câu chữ khiến cả trái tim như uất nghẹn, khi nhìn vào những tội ác mà chúng đã gây ra với dân ta: Chúng coi phụ nữ, trẻ em như một loại hàng hóa. Chúng rút ruột người treo lên cây, nấu thịt người làm dầu, phanh thây phụ nữ có thai, nướng sống người làm trò chơi, chất thây người làm mồ mua vui. Không chỉ có vậy, bọn giặc còn thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng nề để vơ vét của cải, cướp đoạt tài nguyên, sản vật. Chúng phá hoại nhân dân thôi chưa đủ, còn phá hoại cả môi trường sống xung quanh đến nỗi tàn hại cả côn trùng, cây cỏ. Bọn man rợ còn bóc lột đến tàn kiệt sức lao động của người dân “bị đem vào núi đãi cát tìm vàng”, “ bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc”, coi mạng sống con người như cỏ rác mặc cho “cá mập thuồng luồng”, mặc cho “rừng sâu nước độc”. Chúng vơ vét tài nguyên đến tận cùng “vét sản vật”, “bắt chim trả”, “bẫy hươu đen” đến nỗi “chốn chốn lưới chăng”, “nơi nơi cạm đặt”. Giặc Minh quấy nhiễu đến nỗi sản xuất bị đình trệ “tan tác cả nghề canh cửi”, cuộc sống nhân dân bị huỷ hoại không còn lại gì “tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”, đẩy nhân dân đến bước đường cùng “nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”. Chúng đã hung hăng, ngang ngược xúc phạm đến đạo lí nhân nghĩa của đất trời và lòng người.
Trước những tội ác chồng chất của giặc như vậy, chúng ta chỉ có một con đường là đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi để trừ bạo, yên dân. Xót xa cho cảnh nước mất nhà tan, Lê Lợi – người anh hùng áo vải đất Lam Sơn đã phất cờ khởi nghĩa:
“Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”.
Với tư tưởng nhân nghĩa cao cả, “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo” Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ “nhân nghĩa, an dân”, phải cố gắng đoàn kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước. Để làm nổi bật giữa nhân nghĩa với hung tàn, giữa chính nghĩa với phi nghĩa, giữa chiến thắng và chiến bại,… Nguyễn Trãi đã sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập. Ta với giặc Minh khác nào như mặt trời với bóng tối, như văn minh với man rợ, như tất thắng với thất bại. Ông chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được nước phải biết lấy sức dân mà kháng chiến. Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” để làm nên chiến thắng vẻ vang đánh dấu những mốc son chói lọi trong trang vàng sử sách. Những thắng lợi ban đầu đã tạo thanh thế cho nghĩa quân, trở thành nỗi khiếp đảm của kẻ thù:
“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.”
Bình Ngô đại cáo đã tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố về nên độc lập của dân tộc là áng thiên cổ hùng văn còn mãi giá trị nghìn đời sau của đất nước ta. Không chỉ sâu sắc về nội dung mà còn vẹn toàn về nghệ thuật. Phạm Văn Đồng có nhận định rằng “Văn chương của Nguyễn Trãi đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp lạ thường”. Bên cạnh giá trị nhân đạo sâu sắc, “Bình Ngô đại cáo” , một nét đặc sắc nữa về nghệ thuật là lời văn giấu hình tượng. “Bình Ngô đại cáo” có ngôn ngữ trang trọng, hình tượng tráng lệ, kỳ vĩ. Các thủ pháp nghệ thuật như so sánh, thậm xưng, cảm thán… được Nguyễn Trãi sử dụng rất đặc sắc gợi cảm kì lạ. Cáo là một trong những thể văn xuôi cổ; cách đặt câu mang tính quy phạm cổ điển. Nguyễn Trãi đã sử dụng biến hóa các kiểu câu tứ tự, bát tự, câu tứ lục, câu song quan, câu cách cú, câu gối hạc, làm cho nhịp văn lúc có sóng, lúc duỗi dài, lúc nén xuống, lúc dồn dập. Khí văn mạnh mẽ, mang âm điệu anh hùng ca. Có khi là các thi liệu văn liệu cổ đi vào bài cáo một cách thanh thoát hấp dẫn như: cần trúc ngọn cờ, nước sông chén rượu, trúc chẻ tro bay, sạch không kình ngạc… Mở đầu là hai chữ “yên dân”, kết thúc là” thái bình”, “chiến thắng”, là “thanh bình”, là “duy tân” điểu đó đã thể hiện tính nhất khí, nhất quân của Bình Ngô đại cáo. Chỉ nói về phương diện nghệ thuật, “Bình Ngô đại cáo” xứng đáng là bài ca thắng trận, khúc hát hòa bình của ông cha lưu mãi ngàn thu. Trong tác phẩm này, tác giả đã kết hợp một cách uyển chuyển giữa tính chân xác lịch sử với chất sử thi anh hùng ca qua lối văn biền ngẫu mẫu mực của một ngọn bút tài hoa uyên thâm Hán học.
- Kết bài:
Có thể nói, Bình Ngô đạ cáo chính là một áng thiên cổ hùng văn đại diện cho cả dân tộc. Dù trải qua bao nhiêu biến động lịch sử, bao nhiêu thế kỉ trôi qua nó vẫn giữ nguyên giá trị là một áng văn chính luận mẫu mực. Thể hiện một sự tài hoa, lỗi lạc của Nguyễn Trãi – danh nhân văn hóa của thế giới.