phan-tich-canh-di-choi-xuan-va-canh-tro-ve-cua-chi-em-thuy-kieu-trong-canh-ngay-xuan-trich-truyen-kieu-cua-nguyen-du-12133-2

Phân tích 4 câu thơ đầu và 6 câu thơ cuối trong Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)

Phân tích 4 câu thơ đầu và 6 câu thơ cuối trong Cảnh ngày xuân (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)

  • Mở bài:

Cảnh ngày xuân là đoạn thơ tả cảnh ngày mùa xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của chị em Kiều, nằm sau đoạn tả tài sắc hai chị em Kiều, trước đoạn Kiều gặp nấm mộ Đạm Tiên và gặp Kim Trọng. Đoạn trích là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, lễ hội mùa xuân rộn nhịp, hết sức trong sáng. Cảnh đi chơi xuân và cảnh trở về của chị em Thúy Kiều được miêu khắc họa chân thực, ẩn chứa đầy tâm trạng.

  • Thân bài:

Kết cấu đoạn trích theo trình tự thời gian của cuộc du xuân. Bốn câu đầu phác họa khung cảnh ngày xuân. Tám câu tiếp miêu tả khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh. Sáu câu cuối là cảnh chị em Kiều du xuân trở về:

Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

………………………………

Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang

Thanh minh là tiết vào đầu tháng 3 hằng năm. Mùa xuân khí trời mát mẻ, trong trẻo, người ta đi tảo mộ, tức là đi viếng và sửa sang lại phần mộ người thân. Đạp thanh là dẫm lên cỏ xanh. Tiết thanh minh không những là lễ tảo mộ mà còn là hội du xuân. Ở bốn câu thơ đầu, tác giả miêu tả cảnh vật với vẻ đẹp riêng của mùa xuân:

Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Hai câu thơ đầu là hình ảnh khái quát về một ngày xuân tươi đẹp với hình ảnh cánh én chao liệng trên bầu trời thanh bình tràn ngập ánh xuân tươi tắn, trong sáng. Đồng thời, nhà thơ cũng ngỏ ý ngày xuân qua nhanh chóng như “con én đưa thoi”,. Chín mươi ngày xuân mà nay “đã ngoài sáu mươi”.

Hai câu thơ tiếp theo mới thực là bức tranh tuyệt mĩ:

Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Đây là chân dung của cảnh ngày xuân. Khung cảnh chỉ giản đơn có cỏ xanh, hoa trắng mà đủ cảnh, đủ màu, làm hiện lên cả một không gian mùa xuân kháng đạt. Ở đây, Nguyễn Du học tập hai câu thơ cổ Trung Quốc: “phương thảo liên nhiên bích – Lê chi sổ điểm hoa”. Nhưng khi dựa vào bài thơ của mình, tác giả đã rất sáng tạo. Nếu câu thơ xưa dùng hình ảnh “cỏ thơm” (phương thảo) thiên về mùi vị thì Nguyễn Du thay bằng “cỏ non” thiên về màu sắc. Đó là màu xanh nhạt pha với vàng chanh tươi tắn hợp với màu lam trong sáng của nền trời buổi chiều xuân làm thành gam nền cho bức tranh, trên đó điểm xuyến những đốm trắng hoa lê.

Bức tranh dung hòa những sắc độ lạnh mà bên trong vẫn rạo rực sức sống tươi mới của mùa xuân. Chữ “trắng” đảo lên trước tạo sự bất ngờ, mới mẻ, tinh khôi, thanh khiết như kết tinh những tinh hoa của trời đất. Chữ “điểm” gợi bàn tay người nghệ sĩ vẻ nên thơ nên hoa, bàn tay tạo hóa tô điểm cho cảnh xuân tươi, làm bức tranh trở nên có hồn, sống động.

Hai câu thơ tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Du quả là tuyệt bút! Ngòi bút của Nguyễn Du tài hoa, giàu chất tạo hình ngôn ngữ biểu cảm, gợi tả. Tác giả đã rất thành công trong bút pháp nghệ thuật giữa tả và gợi. Qua đó, ta thấy tâm hồn con người tươi vui, phấn chấn qua cái nhìn thiên nhiên trong trẻo, tươi tắn, hồn nhiên, nhạy cảm tha thiết với vẻ đẹp thiên nhiên.

Sáu câu thơ cuối gợi tả khung cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về:

Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

Cảnh vẫn mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng nhạt, khe nước nhỏ, một nhịp cầu bắt ngang nhưng đã nhuốm màu tâm trạng. Bóng tịch dương đã chênh chếch xế chiều: “Tà tà bóng ngã về đây”. Dòng nước uốn quanh ôm ấp núi đồi.

Nhưng đây không chỉ là hoàng hôn của cảnh vật mà dường như con người cũng chìm trong một cảm giác bâng khuâng khó tả. Cuộc du ngoạn xuân cảnh đã tàn, lễ hội tưng bừng náo nhiệt đã chấm dứt, tâm hồn của con người cũng hòa hợp cùng cảnh vật. Bước chân người thơ thẩn. Cảnh như nhạt dần, lặng dần, mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, không gian mang dáng dấp nhỏ nhoi, bé hẹp, phẩn phất buồn.

Tâm trạng con người có cái bâng khuâng, xao xuyến về cuộc du xuân đã tàn, có cả linh cảm về việc gặp gỡ nấm mộ Đạm Tiên và chàng thư sinh Kim Trọng.

Nghệ thuật sử dụng nhiều từ láy như “nao nao”, ‘tà tà”, “thanh thanh” không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng con người. Đặc biệt hai chữ “nao nao” thoáng gợi nên một nét buồn khó hiểu. Hai chữ “thơ thẫn” có sức gọi rất lớn. Chị em Kiều ra về trong sự bần thần, nuối tiếc, lặng buồn. “Dan tay” tưởng là vui nhưng thực ra là chia sẻ cái buồn không nói hết. Cảm giác bâng khuâng xao xuyến về một ngày vui xuân đã hé nở một vẻ đẹp tâm hồn thiếu nữ tha thiết với niềm vui cuộc sống, nhạy cảm và sâu lắng. Chính các từ này đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật.

  • Kết bài:

Cảnh ngày xuân là bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, trong sáng và lễ hội mùa xuân tưng bừng, náo nhiệt. Bốn câu đầu và sáu câu cuối bài “Cảnh ngày xuân”, Nguyễn Du đã vẻ nên bức tranh thiên nhiên mùa xuân thật đẹp. Nhà thơ điểm vài chi tiết, tả cảnh để gợi là chính. Ở đoạn thơ, nhiều hình ảnh đắt giá, sáng tạo; nhiều từ láy miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình và cũng là tâm trạng con người; bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình. Đoạn thơ còn hay bởi đã sử dụng bút pháp cổ điển: tả cảnh gắn với tả tình, tả cảnh ngụ tình, tình và cảnh tương hợp.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang