phan-tich-doan-trich-dat-nuoc-trich-truong-ca-mat-duong-khat-vong-cua-nguyen-khoa-diem

Phân tích đoạn trích Đất nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm

Phân tích đoạn trích “Đất nước” (trích trường ca “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm.

  • Mở bài:

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông thể hiện lòng yêu nước qua việc tranh luận về tuổi trẻ, về nhân sinh quan để dựng lại cả quá trình “tìm đường”“nhận đường” của tuổi trẻ đô thị miền Nam về với con đường cách mạng của dân tộc, nhân dân. Giọng điệu trữ tình giàu chất chính luận, xây dựng chất liệu thơ giàu chất liệu hiện thực, chất liệu văn hoá và giàu tính liên tưởng. Nguyễn Khoa Điềm sử dụng linh hoạt thể thơ tự do với những cung bậc khác nhau của cảm xúc với một vốn từ ngữ giàu có vừa dân dã vừa mang tính văn hoá thời đại. Đoạn trích thuộc phần đầu chương V có tên “Đất nước” của trường ca “Mặt đường khát vọng” là tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và của nền thơ Việt Nam thế kỉ 20. Tác phẩm được Nguyễn Khoa Điềm viết ở chiến khu Trị – Thiên 1971, in lần đầu năm 1974. Đây là giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng là giai đoạn ác liệt nhất đòi hỏi sức mạnh hợp lực trong đó lực lượng chiếm vai trò là thế hệ trẻ.

  • Thân bài:

Đất nước vốn là đề tài muôn thuở trong thi ca và nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ.. Trong những năm tháng chiến tranh, tình yêu đối với đất nước lại càng tỏa sáng và rực cháy trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Sự ra đời phát triển của nền thơ chống Mỹ đã góp phần vào cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc tiếp thêm sức mạnh để dòng thơ về chủ đề này phát triển chưa từng có trước đó.  Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử văn học Việt Nam, thơ ca lại đóng góp nhiều tài năng, tâm huyết với những tác phẩm có sức sống với thời gian như thơ giai đoạn chống Mỹ.

Đoạn trích “Đất nước” đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của nhân dân”, do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời trên cả 3 bình diện: chiều rộng của không gian địa lý, chiều dài của lịch sử và chiều sâu văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm những câu hỏi: “Đất nước là gì? Đất nước này là do ai làm ra? Sẽ do ai bảo vệ và gìn giữ muôn đời?” Để trả lời cho những câu hỏi ấy, Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của mình để đi tìm về cội nguồn của đất nước.

Trước hết, vẻ đẹp đất nước hiện lên trên bình diện chiều sâu văn hoá của dân tộc. Khi nói đến vẻ đẹp của đất nước trên bình diện của chiều sâu văn hóa, ta phải hiểu văn hóa là những giá trị mà con người ở một vùng đất tạo ra. Có thể đó là giá trị tinh thần, cũng có thể là giá trị vật thể. Nguyễn Khoa Điềm nhìn nhận người Việt Nam không chỉ ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở mà còn truyền lại và bảo vệ cho nhau. Những hạt giống của dân ta, những vẻ đẹp mang đậm cốt cách của con người Việt Nam được truyền từ đời này sang đời khác, từ trái tim của người già sang lồng ngực của người trẻ. Đó là vẻ đạp mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam ta. Đất Nước bắt đầu một cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi 
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể 
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn 
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc 

Cấu trúc câu “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” đã hữu hình hóa quá trình phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử. Đất nước tựa như một sinh mệnh sống với nội lực mãnh liệt tồn sinh qua thời gian. Nghệ thuật liệt kê là biện pháp chủ đạo quán xuyến toàn bộ bài thơ, góp phán khắc họa hình ảnh đất nước bình dị, gần gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, làng xóm, quê hương. Đất nước chính à một phần máu thịt trong kí ức của mỗi con người.

Nhà thơ ngược dòng cảm xúc của mình về với những cái ngày xửa ngày xưa, đưa ta về miền cổ tích diệu kì từ lâu đã trở thành cội nguồn của đời sống, tâm hồn ta, cho ta những bài học nhân sinh về lẽ sống nhân hậu, lối sống nghĩa tình, biết yêu thương, đùm bọc. chở che nhau. Đó là tục nhuộm tóc, tục nhai trầu của người già. Đó cũng là câu ca dao tục ngữ “miếng trầu là đâu câu chuyện”, là sự tích trầu cau, là vẻ đẹp của người già Việt Nam. Đất Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt. Từ truyện ca dao, cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc.

Tiếp đến, nhà thơ như một người hướng dẫn đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe lại sự tích Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân: “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Hình ảnh dân ta trồng tre đánh giặc không chỉ được lặp lại một lần mà còn xuyên suốt 90 câu thơ. Đó là biểu tượng cho truyền thống yêu nước, đánh giặc giữ nước của nhân dân Việt Nam. Có thể thấy, từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây tre trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần kiên trung, quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, là biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Từ “lớn lên” được dùng rất chính xác biểu hiện mạnh mẽ niềm tin, niềm tự hào dân tộc.

Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm làm cho ta suy từ vẻ cội nguồn Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, đậm chất trữ tình. Cách cảm nhận, lí giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh bình dị, thân thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi. thân thuộc, bình dị ngay trong đời sống mỗi người:

Tóc mẹ thì bới sau đầu 
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên 
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng 
Đất Nước có từ ngày đó…

Câu thơ: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” nhắc đến chúng ta nghĩ về tập tục làm nên nét riêng của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Hình ảnh người phụ nữ Việt nam hiện lên với tất cả vẻ đẹp của sự hiền hậu, chịu thương chịu khó. Tình cảm gia đình nồng ấm trong tình yêu gắn kết của con người biết gừng cay muối mặn thương nhau. Đất nước trưởng thành từ những giọt mồ hôi tần tảo, dầm mưa giãi nắng. Hạt thóc, hạt gạo thấm mặn mồ hôi, thấm nỗi nhọc nhằn nuôi lớn biết bao thế hệ.

Đất nước lớn lên từ những gian khổ của cha và từ những lo âu của mẹ. Đó là chất liệu của ca dao tục ngữ. Đó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng đá, là lối sống nghĩa tình, thủy chung, son sắt của những cặp vợ chồng Việt Nam.

Câu thơ Cái kèo, cái cột thành tên  nói đến tục đặt tên con xấu cho con để dễ nuôi của người xưa. những vật vô tri đã chứa đầy tình cảm của con người.

Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong câu thơ thứ 8: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” chỉ ra những bước để tạo ra hạt gạo trắng ngần. Một đất nước hiền hậu, nơi khởi sinh của nền văn minh lúa nước, luôn bảo vệ hạt giống, cốt cách con người Việt Nam. Những vẻ đẹp do cha mẹ truyền cho con tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, ông cha truyền lại cho con cháu lối sống cao đẹp và nếp nghĩ thông qua ca dao tục ngữ.

Và chính nhân dân bình dị là những người đã giữ gìn và truyền lại những vẻ đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần tác giả giúp ta nhận ra: “Đất Nước có từ ngày đó…”. Ta không biết “ngày đó” là ngày nào chỉ biết đó là từ rất xưa, rất xa. Chỉ biết rằng đất nước có từ lúc những huyền thoại, truyền thuyết, từ lúc dân tộc hình thành phong tục, tập quán, từ lúc người Việt mình không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng và dùng bàn tay lao động để xây dựng đất nước.

Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết trồng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc. biết sống yêu thương, thủy chung. Nếu sự nối tiếp của các triều đại mới chỉ cho thấy bề mặt của lịch sử đất nước thì những phong tục tập quán mới thực sự chỉ ra chiều sâu văn hóa lịch sử, nền tảng vững chắc của một đất nước.

Nhà thơ tiếp tục đưa dòng suy tưởng đến với thuở nguyên sơ, lúc tình yêu nhân loại mới bắt đầu:

Đất là nơi anh đến trường 
Nước là nơi em tắm 
Đất Nước là nơi ta hò hẹn 
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Ý niệm về đất nước vốn hình thành tự nhiên ở con người. Nhưng một đất nước vẹn toàn phải được giáo dục từ trường học. Anh nhận thức được điều đó qua những lời thầy dạy, qua những bài học về quê hương đất nước. Đất nước gắn kết con người trong tình yêu nồng thắm, trong nỗi nhớ mênh mang khó lí giải như tình yêu lứa đôi. Nó vừa hiện hình mà vừa ẩn tàng trong khắp không gian,thời gian và cả trong tiềm thức xa xôi:

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” 
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” 
Thời gian đằng đẵng 
Không gian mệnh mông 
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”.

Sự tích “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” , “con cá ngư ông móng nước biển khơi” nhắc nhở ta rằng đất nước là nguồn sống, là nguồn cội luôn phải hướng về. Đất nước là nơi ta náu mình trước phong ba bão tố, là tổ ấm thiêng liêng mà mỗi người cần phải có. không có đát nước nghĩa là không có cuộc sống ấm êm, không có niềm vui, không có hạnh phúc, không có cộng đồng. Không có đất nước, cuộc sống của mỗi con người trở nên vô nghĩa.

Đất nước còn hiện ra trong những huyền thoại bay bổng và đẹp đẽ, về thời gian buổi đầu lập nước:

“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Đây là một huyền thoại đầy ý nghĩa đem lại niềm tự hào về lịch sử xa xăm của ngày lập nước, niềm kiêu hãnh về dòng dõi con Rồng cháu Tiên, niềm thương mến về nghĩa tình “đồng bào” thiêng liêng, ruột thịt. Qua những câu thơ gợi nhớ truyền thuyết về vua Hùng Vương và ngày giỗ Tổ, câu chuyện về chú bé Làng Gióng cầm gậy tre đánh giặc, về lớp lớp những thế hệ người Việt Nam với “những ai đã khuất” trong quá khứ, “những ai bây giờ” trong hiện tại, “con ta lớn lên” trong tương lai:

“Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau”

Nguyễn Khoa Điềm đã làm hiện lên trong suy tưởng của người đọc một chiều dài thăm thẳm trong thời gian lịch sử của đất nước. Qua đó, đất nước được cảm nhận như một sự thống nhất hài hòa các phương diện văn hóa – lịch sử, đạo lý, vừa thiêng liêng cao quý, vừa gần gũi gắn bó với cuộc sống nhân dân. Những giá trị tinh thần bền vững như lòng yêu nước, căm thù giặc, ý chí kiên cường dũng cảm đánh giặc, sự thủy chung tình nghĩa…, những giá trị vật chất quý giá của đất nước: ngôi nhà, ruộng vườn, hạt lúa… được hình thành, nuôi dưỡng, bảo vệ, giữ gìn qua các thế hệ đã tạo nên sự gắn kết giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.

Mạch thơ đưa đất nước trôi chảy trong “dòng thời gian đằng đẵng” với “đất nước bắt đầu… đất nước lớn lên…” . Nếu nhìn từ phương diện thời gian, có thể thấy đất nước hình thành và phát triển qua cuộc chạy tiếp sức lớn lao, vĩ đại, vĩnh hằng của các thế hệ người Việt Nam trong chiều dài của lịch sử dựng nước và giữ nước:

Trong anh và em hôm nay 
Đều có một phần Đất Nước

Hai yếu tố “Đất” và “Nước” được nhà thơ soi chiếu trong mối quan hệ với  không gian và thời gian, với lịch sử và hiện tại. Đất nước là mảnh đất quen thuộc gắn bó với mỗi con người, đất nước thân thương như mái trường ta học, như dòng sông em tắm, như góc phố , đình làng, ao sen, lũy tre , cây đa, bến nước nơi lứa đôi hò hẹn, một không gian nhỏ chỉ hai người biết, hai người hay, rất riêng tư nhưng cũng đậm hồn quê hương xứ sở. Đó không phải là một kết luận mà là bắt đầu một nhận thức mới mẻ. Đất nước không ở đâu xa. Đất nước hiện hình trong mỗi con người. Đất nước có trong anh và trong em. Bởi thế nên:

Khi hai đứa cầm tay 
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm 
Khi chúng ta cầm tay mọi người 
Đất nước vẹn tròn, to lớn.

Đất nước lại được gìn giữ và truyền lại. Quá trình ấy đã bắt đầu từ xa xưa, đi đến hôm nay. Và bổn phận của mỗi con người là gìn giữa và tiếp tục dòng chảy vĩnh hằng ấy:

Mai này con ta lớn lên 
Con sẽ mang đất nước đi xa 
Đến những tháng ngày mơ mộng 
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình 
Phải biết gắn bó san sẻ 
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở 
Làm nên Đất Nước muôn đời…

Đất nước hiện hình trong không gian địa lí mênh mông. Trước hết, khi nói về chiều rộng của không gian địa lý ta phải hiểu địa lý là tất cả những yếu tố vẻ một tự nhiên trên một đơn vị diện tích lãnh thổ đất nước. Là một nhà thơ đã đi hết chiều dài của mảnh đất hình chữ S, ông hiểu từng đại danh và vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam. Bởi thế mà, từng địa danh của đất nước đi vào thơ ông thật tự nhiên, gần gũi, ẩn chứa trong nó biết bao tình cảm mến yêu:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại 
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương 
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm 
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên. 
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh 
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm 

8 câu thơ mở ra một không gian cổ tích diệu kỳ thần thoại, ca dao. Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, các sự tích được tích gộp lại kĩ càng. Ta cũng nhận thấy rõ sự am hiểu của tác giả về địa danh đất nước và văn hóa dân gian. Một lần nữa tác giả như một người hướng dân viên du lịch đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe sự tích thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giộc Ân. Đó là truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Mỗi một dòng thơ tuy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung một kết cấu. Mỗi dòng thơ đều chia ra hai phần và liên kết với nhau bằng điệp từ “góp”.

Ta có thể chia đoạn thơ dọc theo từ “góp” sẽ được hai nửa diễn tả theo phương thức tương quan  đối lập. Nửa trước nói về nhân dân với lời thơ mộc mạc, bình dị, cảm xúc chân thành, có pha chút ngập ngừng, xót thương. Trái lại, nửa sau từ “góp” lại nói về hình ảnh đất nước với lời thơ lộng lẫy những sắc màu muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật tương phản này chính là bài ca ca ngợi sự hi sinh của nhân dân để tạo nên đất nước huy hoàng, rực rỡ. Đằng sau mỗi địa danh là một tên gọi. Đằng sau mỗi tên gọi là một huyền thoại. Và sau những huyền thoại là cuộc đời của muôn triệu con người. Nhân dân đã làm nên đất nước. Rất nhỏ bé, đó là những cộp vợ chồng thủy chung, là những anh hùng, những người lính quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đó là những người học trò nghèo nghiên bút mài kinh nấu sử, là những ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm… Hơn thế nữa, nhân dân còn là những cái tên bé nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng những hình ảnh con cóc, con gà.. Trong nhân dân còn có những nhân vật mà chỉ nhắc đến ta đã thấy hùng vĩ thiêng liêng, ngưỡng mộ, tôn thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp minh dựng dốt tổ Hùng Vương” phục quanh núi Hi Cương hay “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”.

Hình ảnh nhân dân ta đa dạng là thế, đông đảo là vậy mà chỉ làm một việc chung và thống nhất: góp sức chung lòng để xây dựng nên đất nước Việt Nam ta. Nhà thơ sử dụng điệp từ “góp” thật ấn tượng, gợi sự kiên trì, bền bỉ, ý chí thống nhất, tình đoàn kết trăm người như một chung sức chung lòng một việc: góp phần kiến tạo nên không gian huy hoàng cho nhân dân. Nhân dân đã góp sức, góp sự đoàn kết và góp cả máu xương, cả tính mạng, góp tên tuổi, góp tài hoa qua biết bao thế kỉ. Nhờ đó mà thế hệ chúng ta mới có được một Đất nước hữu hình. Đó thực sự là đất nước của những anh hùng.

Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến những địa danh không tên. Có người đã từng nói đất hoang là đất không tên. Việc đặt tên cho một địa danh là vô cùng quan trọng, không thể làm tùy tiện. Có không ít những địa danh đã soi bóng trong thơ ca dân tộc nhằm ca ngợi núi sông hùng vĩ, địa linh nhân kiệt. Nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đi theo hưởng đó. Ông lại diễn tả sự sinh sôi của các địa danh đó vì ở đó có lòng chung thủy, sự gắn bó, có máu xương, có tài hoa, có tên tuổi, có linh hồn của nhân dân. Đây là kết quả của sự hi sinh bền bỉ to lớn của nhân dân.

Có thể nói, tám câu thơ đã giúp người đọc thấy được sự kỳ diệu của thế hệ trước. Nó giống như một bảng vàng chói lọi mà tổ quốc ghi công cho nhân dàn – những con người vô danh đã hi sinh để làm nên tác phẩm kỳ diệu là nhân dân ta.

Nếu như tám dòng thơ trước tưng bừng những màu sắc lấp lánh, hình tượng đầy chất thơ thì bốn câu thơ sau lại là những cảm xúc chứa đựng đầy suy ngẫm qua lối nói chính luận xen lân sự trầm ngâm của một trí thức:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi 
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha 
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy 
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…

Được viết liên mạch theo lối vắt dòng và diễn tà bằng lối phủ định để khẳng định, đoạn thơ giống như một tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức tranh luận để khẳng định mạnh mẽ những hi sinh to lớn của nhân dân.Trên khắp quê hương, trong mỗi một dáng hình, đâu đau cũng khắc hình đất nước. Sự ghi khắc ấy không nằm ở vật thể mà trong tâm thức của con người. Nhà thơ như không giấu nỗi lòng mình, bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào trước những hi sinh vĩ đại của nhân dân. Và có lẽ đó cũng là sự ghi nhận lớn lao nhất đối với lớp lớp cha ông đã đi qua lịch sử và tạp nên đất nước.

Tác giả nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm “. Đó là chiều dài lịch sử dân tộc bốn nghìn lớp cha ông đều chiến đấu. Đời cha đi trước, đời con đi sau. Cha con đều là những đồng chí đồng đội chiến đấu vì độc lập dân tộc. Tuy có lúc thấy bại nhưng chưa bao giờ họ bỏ cuộc. Hết lớp này, đến lớp khác cứ thế mà vươn lên.

Kết thúc đọan thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”. Ở đây có sự chuyển đổi sâu sắc. Nếu những câu thơ trước đó, mỗi dòng đều có từ mười ba đến mười lăm âm tiết thì ở câu thơ cuối lại gói gọn trong tám âm tiết. Đó như một sự trầm ngâm, một sự đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh đó nó còn được kết thúc bởi hai thanh bỗng như một lời hạ giọng để suy tư, in dấu vào âm hưởng mênh mang. Dấu ba chấm kết thúc đọan thơ như một phút lặng của lòng người trước những xáo trộn của tâm hồn.

Cuộc đời của những con người tuy ngắn ngủi, hữu hạn là thế nhưng lại “hóa thành núi sông ta”, gởi những cái hùng vĩ vô hạn, vĩnh hằng bất biến. Đây chính là sự biến đổi phi thường, khẳng định nhân ta thật kỳ diệu. Họ chẳng những hóa thân để làm nên hình hài của đất nước mà còn làm nên linh hồn đất nước.

Bên cạnh vẻ đẹp chiều rộng không gian địa lý đất nước còn hiện lên với chiều dài của thời gian lịch sử. Nguyên Trãi trong “Bình Ngô đại cáo” đã từng từ hào viết:

Từ Triệu Đinh. Lí. Trân bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tổng, Nguyên mở bên xưng đế một phương

(Đại cáo bình Ngô – Nguyễn Trãi)

Nếu Nguyễn Trãi nhìn nhận đất nước dưới gốc độ dấu ấn lịch sử của các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch sử đất nước qua đời sống lao động và hy sinh của con người lao động bình dân.  Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” như một cảm quan lịch sử chủ đạo của Nguyễn Khoa Điềm, chi phối cái nhìn của nhà thơ khi nghĩ về  lịch sử của đất nước, được gìn giữ và kiến tạo bằng máu và mồ hôi của những con người bình dị không tên tuổi. Lịch sử ấy được kết thành từ bao thế hệ, bao số phận: những người vợ nhớ chồng ra trận, từ anh học trò nghèo, những con gà con cóc nhỏ bé, đến gót ngựa Thánh  Gióng, 99 con voi chầu đất Tổ Hùng Vương… Mỗi người, mỗi vật đi qua trong lịch sử, trong không gian, thời gian đều để lại một chút gì cho đất nước. Đó chính là nhân dân, bằng những cuộc đời thầm lặng, vô danh đã kiến tạo nên giá trị vĩ đại và trường tồn, đó là Đất nước:

Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng.

Rõ ràng, Nguyễn Trãi nhìn nhận đất nước bằng tư tưởng của một nhà chính trị, quan điểm mang đạm tính chính trị, ngoại giao. Nguyễn Khoa Điềm trả nó về với những người chủ đích thực của nó. Đó là nhân dân. Bốn ngàn nâm ấy là bốn ngàn lớp người Việt Nam ra trận, là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận. Biết bao con người đã ngã xuống trong lao động và trong chiến đấu để góp một phần nhỏ hình thành nên đất nước. Nhân dân trong quan niệm Nguyễn Khoa Điềm, là tập thể những người anh hùng vô danh. Họ sống giản dị, chết bình tâm, chiến đấu không phải để mang tên cho lịch sử mà vì một lẽ thiêng liêng, bình dị và cao cả: bảo vệ đất nước. Câu thơ ngắn, cô đúc nhưng lại chính là sự dồn nén của cảm xúc tác ấn chứa biết bao xúc động chân thành trước những hi sinh thầm lặng, những đóng góp lớn lao của những người vô danh, hiền lành và giản dị.

Nhà thơ Thanh Hải cũng đã có những dòng thơ tự hào như thế:

Đất nước bốn nghìn năm
vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước

(Mùa xuân nho nhỏ – Thanh Hải)

Cũng trong dòng cảm xúc ấy Chế Lan Viên đã viết

Ôi Tổ quốc , ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…

(Sao chiến thắng – Chế Lan Viên)

Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của người dân Việt Nam. Nói vẻ lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của những con người vô danh:

Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ 
Những em biết không 
Có biết bao người con gái, con trai 
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi 
Họ đã sống và chết 
Giản dị và bình tâm 
Không ai nhớ mặt đặt tên 
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hàng ngày và trong suốt cuộc đời họ:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng 
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói 
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân 
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái 
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm 
Có nội thù thì vùng lên đánh bại

Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lọi cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần, vật chất và cả tình yêu đất nước của lớp lớp con người. Hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi người yêu văn chương vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông trong “Bài thơ báng súng”:

Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.

(Bài thơ báng súng – Hoàng Trung Thông)

Chính nhân dân đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên trang sử vẻ vang của dãn tộc Việt Nam thì đó là máu, là mồ hòi, là nước mắt của nhân dân. Cũng như vậy, ta lại nhớ đến hình ảnh anh giỏi phóng quân trong bài thơ “Dáng đứng việt Nam” của Lê Anh Xuân:

Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt 
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng 
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn 
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng. 
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng 
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn 
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm 
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công 

(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)

Người lính đã ngã xuống nhưng tư thế chiến đấu của anh mãi mãi đi vào lịch sử. Đó là dáng đứng Việt Nam, là biểu tượng của tinh thần bất khuất, kiên trung của dân tộc Việt Nam. kẻ thù có thể giết chết họ nhưng không thể nào hủy diệt được tinh thần và lòng yêu nước của họ. Chính họ đã làm nên đất nước thiêng liêng:

Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường 
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ: 
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân. 
Tên Anh đã thành tên đất nước 

(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)

Không một dòng địa chỉ cùng chẳng có một tấm hình trước lúc hy sinh nhưng những con người ấy vẫn nguyện ra đi để bảo vệ đất đai, xứ sở. Họ nguyện ngã xuống để “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân” đến muôn đời. Để mặt đất không còn bóng giặc và trên bầu trời không còn khói lửa của chiến tranh. Chính máu, mồ hôi và nước mắt của biết bao con người đã kết tụ thành tinh anh đất nước.

Mạch suy nghĩ sâu lắng dần đến tư tưởng cốt lõi, điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ tình ở âu thơ cuối: “Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân”.

Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao, vẻ đẹp tinh thần của nhân dân. Hơn đâu hết, có thể tìm thấy vẻ đẹp đất nước trong ca dao, dàn ca, truyện cổ:

“Đất Nước của Nhân dân. Đất Nước của ca dao, thần thoại”.

Câu thơ hai vế song song là một cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà cũng thật độc đáo. Nền vân hóa của Đất Nước Việt Nam là nền văn hóa của Nhân dân, do Nhân dân sáng tạo nên. Trong nền văn hóa ấy, ca dao thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước. Đặc biệt là đời sống tâm hồn phong phú của Nhân dân:

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi” 
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội 
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy 
Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo. Ông không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý tứ và hình ảnh của ca dao, gợi nhớ đến ca dao nhưng lại trở thành một câu thơ, một ý thơ gắn bó trong mạch chung của toàn bài.

Sử dụng linh hoạt sáng tạo chất liệu ca dao của văn học dân gian, dường như có một sự đồng diệu và gặp nhau trong tâm hồn cha ông ngàn xưa và thế hệ hiện tại. Phải thấu hiểu, trân trọng giá trị văn hóa dân tộc thì tác giả mới có cái nhìn sâu sắc, mới mẻ ấy trong quan niệm “Đất Nước của Nhân dân”.Cảm hứng thơ dồn dập dâng trào đến đỉnh điểm từ đó bật lên điểm sáng cốt lõi trong quan niệm đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo nên không khí, giọng điệu, không gian vừa cổ kính thiêng liêng vừa gần bình dị, gần gũi như tiếng lòng của mỗi con người Việt Nam ta Có thể nói mạch nguồn dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.

Qua đoạn trích Đất Nước, chúng ta phần nào nhận thấy đặc điểm của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp hài hòa giữa chất chính luận với phong cách trữ tình, giữa suy tưởng với cảm xúc cùng ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi, nồng nàn hơi thở cuộc sống và thời đại. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình đa.

Hình đất nước anh dũng đi qua bốn ngàn năm lịch sử khảng định mạnh mẽ sức sống bất diệt của dân tộc.  Qua đó ta có thể thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, lịch sử hay văn hoá, Đất nước này là của nhân dân. Đất nước sẽ do nhân dân bảo vệ và gìn giữ đến muôn đời. Nhà thơ Nguyên Khoa Điềm đã chưng cất, lắng ủ và lên men trong tiếng thơ của mình vẻ đạp duyên dáng nhuần nhị những thi liệu văn hóa, văn học dân gian. Sự nhất quán trong toàn bộ đoạn thơ với những câu thơ dài ngắn đan xen nhau như sự tan chảy, hòa quyện của dòng cảm xúc, sự miên man của dòng suy tưởng bất tận.

Xuyên suốt toàn bộ đoạn trích “Đất nước” 2 chữ “Đất nước” luôn được viết hoa một cách trang trọng, lặp đi lặp lại tựa như một chủ âm trong bản trường ca hùng tráng ngơi ca non sông gấm vóc. Chính nhờ âm hưởng ấy, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước và tinh thân tự hào dân tộc cùng trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta.

“Đất Nước” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, không chỉ là chiều rộng của không gian địa lí mà nó còn là chiều dài lịch sử của một nền văn hoá phong phú, lâu đời đầy nhân hậu với cả một truyền thống hào hùng mang bản sắc riêng của dân tộc Việt. Nguyễn Khoa Điềm đã làm sáng lên tư tưởng: Đất nước của nhân dân bằng chất liệu Đất nước của ca dao thần thoại.

Rõ ràng tư tưởng trên đã thật sự vang lên bằng tiếng nói nghệ thuật của thơ. Tiếng nói ấy rất độc đáo, nó là nốt nhạc ngân vang trong bản hòa điệu của thơ ca chống Mỹ, thể hiện tâm hồn cảm xúc của thi nhân trước vẻ đẹp văn hóa dân tộc. Tư tưởng ấy đến nay còn tươi nguyên bởi giá trị của nó, bởi trách nhiệm “hóa thân cho dáng hình xứ sở” là vấn đề muôn đời của thơ ca và cuộc sống. Đây chính là thành công đáng kể của  phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm.

Đoạn trích “Đất nước” thể hiện những nhận thức, khám phá mới mẻ về Đất Nước của tuổi trẻ thành thị miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ. Trên nền văn hóa dân gian vững chắc, tác giả đã định hướng sự tìm tòi, suy ngẫm tới nhiều bình diện như: lịch sử, địa lý, phong tục,… Để làm nổi bật tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân và gợi ý thức trách nhiệm của mỗi người trước vận mệnh của Đất Nước.

Tất cả các kiến thức, tư liệu, sự kiện phong phú được đưa vào không chỉ tác động vào lý trí làm bừng sáng nhận thức mà còn lay thức tình cảm của người đọc, của mỗi người Việt Nam chủ yếu nhờ vào sự thẩm thấu qua tâm hồn, cảm xúc của Nguyễn Khoa Điềm. Từ đó, nhà thơ đã lìm được một cách nói riêng, giọng diệu tâm tình, sâu lắng

  • Kết bài:

Nguyên Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội, là một trong những nhà thơ đã “xẻ dọc trường Sơn đi cứu nước” luôn mang trong mình hình ảnh đất nước. Mặc dù bài thơ được viết theo lối trường ca, chất tự sự, liệt kê, khó đọc, khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong tác phẩm này xứng đáng đưa bản trường ca trở thành tác phẩm tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đồng thời, “Đất nước” cũng xứng đáng trở thành hành trang tinh thân của người yêu văn chương suốt bây nhiêu lâu nay về đề tài tình yêu quê hương, tình yêu đất nước và có giá trị cho đến muôn đời.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang