HAI CHỮ NƯỚC NHÀ
(Trần Tuấn Khải)
I. Tác giả, tác phẩm :
1. Tác giả: Trần Tuấn Khải
Trần Tuấn Khải (1895 – 1983), bút hiệu Á Nam, quê làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông thường mượn những đề tài lịch sử hoặc những biểu tượng nghệ thuật bóng gió để bộc lộ nỗi đau mất nước, nỗi căm giận bọn cướp nước và bè lũ tay sai, nhằm khích lộ tinh thần yêu nước của đồng bào và bày tỏ khát vọng độc lập tự do của mình. Thơ Trần Tuấn Khải vào nhừng năm hai mươi của thế kỉ XX được truyền tụng rộng rãi, nổi tiêng nhất là những bài hát theo các làn điệu dân ca và những bài thơ theo các thể loại cổ truyền của dân tộc như lục bát, song thất lục bát.
Tác phẩm chính : các tập thơ Duyên nợ phù sinh (1921 và 1923), Bút quan hoài (1924 và 1927), Với sơn hà (1936)…
2. Đoạn trích: Hai chữ nước nhà
Hai chữ nước nhà là hài thơ mở đầu tập Bút quan hoài, sáng tác năm 1926. Bài thơ mượn đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị giặc bắt đem sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi định đi theo cha, nhưng tới biên giới phía bắc, Nguyễn Phi Khanh đã khuyên Nguyễn Trãi nên quay trở về để lo tính việc trả thù nhà, đền nợ nước.
+ Đoạn thơ trích là phần mở đầu của hài thơ, gồm 36 câu thơ, là lời trăn trối của người cha để lại cho con trước giờ vĩnh biệt. Cảm xúc bao trùm đoạn thơ là nỗi xót xa, đau đớn trước cảnh nước mất nhà tan. Nỗi niềm ấy được thể hiện bởi một giọng thơ lâm lì, thống thiết, tràn đầy cảm xúc. Tác giả đã tìm đến thể thơ song thất lục bát vốn có nhạc tính phong phú, thích hợp để diễn tả những tiếng lồng sầu thẳm hay những nỗi niềm hi phẫn, oán than, làm nên giọng điệu đặc sắc của đoạn thơ.
+ Có thể chia đoạn thơ thành 3 phần:
Phầnl (8 câu dầu): tâm trạng của ngươi cha trong cảnh ngộ éo le, đau đớn. Cảnh ngộ biệt ly đầy bi phẫn, gợi trực tiếp về thực trạng nước mất nhà tan. Nỗi đau của Nguyễn Phi Khanh – cũng chính là niềm bi phẫn của những nguời dân phải chịu nỗi tủi nhục nô lệ.
Phần 2 (20 câu tiếp theo): Tình cảnh đau thương tang tóc của nước nhà : Suy ngẫm về thời thế tạo cảm xúc đau tức hờn căm. Thảm cảnh của đất nước gắn với nỗi đau nhân dân cho thấy rõ tội ác quân thù gây ra trên sông núi, là thực trạng “nước mất nhà tan”. Lời chiêu hồn nước thấm đẫm máu lệ : Khơi gợi trách nhiệm trước vận nước nghiêng nghèo. Là “nỗi sầu đau nhường xé tâm can”, có tác dụng thức tỉnh lương tri trước vận nước.
Phần 3 (8 câu còn lại): thế bất lực của người cha và lời trao gửi cho con. Lời dặn con thiết tha của Nguyễn Phi Khanh chính là lời kêu gọi kín đáo trách nhiệm của thế hệ thanh niên trước nỗi nhục nô lệ.
II. Phân tích nội dung đoạn trích:
Phần I:
“Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình“
Bốn câu thơ đầu thể hiện tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau đớn. Cuộc chia li của hai cha con diễn ra nơi biên giới xa xôi, ảm đạm, heo hút: “Chẩn ủi Bắc mây sầu ảm đạm”, “bốn bề” chỉ có tiếng “hổ thét chim kêu”. Đây là địa cầu phía bắc của Tổ quốc, và chỉ một vài bước chân nữa thôi là Nguyền Phi Khanh vĩnh viền xa lìa đất nước, quê hương. Tâm trạng ấy phủ lên cảnh vật một màu thê lương, tang tóc.
Càng não nùng hơn nữa, Nguyễn Phi Khanh phải xa lìa đất nước trong lúc đất nước đang quằn quại dưới gót giày ngoại xâm. “Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu”, câu thơ ấy đâu chỉ miêu tả không gian trong thế đối với “Chốn ải Bắc mây sầu am đạm ”, nó còn gợi lên hiện tình đau buồn của đất nước. Phải đặt vào ý nghĩa ấy thì mới thấy hết được hoàn cảnh éo le và thấm thía được tâm trạng của hai cha con :
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dậm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên: “
Hoàn cảnh thật éo le: cha bị bắt giải sang Tàu, không mong ngày trở lại ; con muốn đi theo phụng dưỡng cha già cho trọn đạo hiếu, nhưng cha phải dặn lòng khuyên con trở lại để lo tính việc trả thù nhà, đền nợ nước. Cha con li biệt, nước mất nhà lan, những đau đớn xót xa chồng chất. Tình nhà, nghĩa nước đều sâu đậm và đều tột cùng đớn đau. “Hạt máu nóng” và những giọt châu tầm tã, đó là những hình ảnh ước lệ quen thuộc trong thơ văn xưa nhưng trong tình cảnh này, chúng đã diễn tả chân thật tâm trạng của con người.
Gạt đi nước mắt tình nhà, cả hai cha con đã biết đặt nọ nước lên trên. Lời khuyên của người cha có ý nghĩa như một lời trăng trôi để lại cho con. Nó thiêng liêng, xúc động và đầy sức truyền cảm không chỉ vì đó là lời tâm huyết cuối cùng của một đời người, mà quan trọng hơn, còn vì đó là lời nói chân thành xuất phát từ một trái tim yêu nước, khiến người nghe phái khắc cốt ghi tâm.
Phần 2 :
“Giống Hồng Lạc hoàng thiên[3] đã định
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay
Trời Nam riêng một cõi này
Anh hùng, hiệp nữ[5] xưa nay kém gì!
Than vận nước gặp khi biến đổi
Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm hoạ xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn dân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Thảm vong quốc kể sao cho xiết
Trông cơ đồ[8] nhường xé tâm can
Ngậm ngùi khóc đất giời than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khói Nùng lĩnh[9] như xây khối uất
Sóng Long giang nhường vật cơn sầu
Con ơi! càng nói càng đau…
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?”
Phần 2 gồm 20 câu thơ vẫn là lời của người cha nói về tình cảnh đau thương của đất nước. Nhưng đó cũng chính là những lời thơ bộc bạch tình cảm của tác giả. Nhà thơ nhập vai người trong cuộc – một nạn nhân vong quốc đang đi vào chỗ chết – để miêu tả hiện hình của dân nước và tội ác của quân xâm lược, cho nên cảm xúc chân thành, nỗi đau da diết làm xúc động tâm can người đọc.
Bài thơ nói đến tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc Minh ỏ thế kí XV, nhưng thực ra nào có khác gì tình cảnh đất nước ơ những năm 20 của thế kỉ XX đang bị thực dân Pháp cai trị. Nỗi đau mất nước của hai thời đại nào có khác gì nhau ? Vẫn là nỗi đau trước cảnh điêu linh tang tóc dưới bàn tay tàn bạo của bọn người “khác giống”. Tình cảm yêu nước của tác giả trong đoạn thơ biểu hiện thật phong phú : đó là niềm tự hào về giống Hồng Lạc ở cõi trời Nam xưa nay không thiếu anh hùng hiệp nữ ; là nỗi đau trước vận nước lầm than, giống nòi rên xiết ; là nỗi căm giận giặc ngoại xâm bạo tàn…
Có thể nhận ra những nỗi niềm ấy qua những dòng thơ tự sự đan xen với những lời cảm thán. Bên cạnh những lời thơ kể về tình cảnh của đất nước, xuất hiện rất nhiều những từ ngữ và hình ảnh thơ diễn tả cảm xúc mãnh liệt, sâu sắc (xiết bao, kể sao xiết kể, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc, than, thương tâm, khối uất, cơn sầu…). Nỗi đau ở đây không phải là nỗi đau riêng gắn với số phận cá nhân mà là nổi đau thiêng liêng, lớn lao, cao cả, gắn với vận nước cơ đồ, nòi giống, làm kinh động cả đất trời (đất khóc giời than), cả sông núi (Khói Nùng Lĩnh như xây khói uất – Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu)…
Giọng điệu thơ nhờ thế mà trở nên lâm li, thống thiết, xen lẫn nỗi phẫn uất, hờn căm, mỗi dòng thơ là một tiếng than, một tiếng nấc xót xa cay đắng. Giọng thơ tâm huyết đầy bi phẫn này là sở trường của Trần Tuấn Khải, nó có sức rung động lớn, nhất là đối với những tâm hồn đồng điệu ở thời đại đó.
Phần cuối:
“Cha xót phận tuổi già sức yếu
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
Thân lươn bao quản vũng lầy
Giang sơn gánh vác sau này cậy con”
Ở phần cuối đoạn thơ, người cha nói đến cái thế bất lực của mình (“Cha xót phận tuổi già sức yếu – Lỡ sa cơ dành chịu bó tay – Thân lươn bao quản vùng lầy”) là để trao gửi lại trọng trách “giang sơn gánh vác sau này cậy con”. Bốn câu cuối cùng nói đến sự nghiệp của tổ tông nhằm kích thích, hun đúc ý chí gánh vác giang sơn ở người con. Lời trao gửi vừa đầy sức nặng tình cảm, vừa sôi sục nhiệt huyết cứu nước và tinh thần tự hào dân tộc.
Tổng kết:
Qua đoạn trích hùi thít Hai chữ nước nhà, Á Nam Trần Tuấn Khải đã mượn mật câu chuyện lịch sử có sức gợi cảm lớn để bộc lộ cảm xúc của mình và khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào. Tinh câm sâu đậm, mãnh liệt đối với nước nhà, sự lựa chọn thể thơ thích hợp và giọng điệu trữ tình thống thiết cửa tác giả đã tạo nên giá trị đoạn thơ trích