»» Nội dung bài viết:
Phân tích dòng chảy tâm trạng của nhà thơ Viễn Phương qua bài thơ “Viếng lăng Bác”.
- Mở bài:
Viễn Phương là cây bút xuất hiện sớm của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời chống Mĩ cứu nước. Thơ ông nhẹ nhàng, đằm thắm như cái tính của người Nam bộ. Năm 1976, miền Nam vừa chấm dứt chiến tranh, đất nước thống nhất, Viễn Phương có dịp cùng đoàn cán bộ ra thăm miền Bắc, vào viếng lăng Bác. Trong dịp ấy, ông ghi lại cảm xúc chân thành của mình với bài thơ “Viếng lăng Bác”. Bài thơ thể hiện tâm trạng vô cùng xúc động của một người con từ chiến trường miền Nam được ra viếng Bác cùng tấm lòng thành kính thiêng liêng trước công lao vĩ đại và tâm hồn cao đẹp, sáng trong của Người; nồi đau xót tột cùng của nhân dân ta nói chung, của tác giả nói riêng khi Bác không còn nữa.
- Thân bài:
Xuất phát từ tiếng lòng chân thành và hồn hậu của nhà thơ bài thơ Viếng lăng Bác giống như một câu chuyện kể, một lời tâm tình của nhà thơ với mọi người. Kết cấu bài thơ tuân thủ tiến trình thời gian và hành trình từ bên ngoài lăng, đi vào trong lăng và lúc rời xa tạo thành dòng chảy tâm trạng của nhà thơ Viễn Phương khi đến viếng lang Bác.
Tâm trạng nhà thơ khi đứng trước cảnh trí ngoài lăng:
Mở đầu bài thơ là một lời giới thiệu ngùi ngùi cảm xúc:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, miền Nam – mảnh đất “đi trước về sau” kiên cường đánh giặc suốt mấy chục năm trường, từng chịu biết bao đau thương, gian khổ, được Bác Hồ gửi gắm những tình cảm tin cậy và yêu thương nhất! Người luôn dành cho đồng bào miền Nam những tình cảm thiêng liêng cao quý nhất. Người trăn trở: “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”.
Hôm nay, miền Nam đã được giải phóng, hai miền Nam-Bắc thống nhất mọt nhà, ý nguyện của Người đã thành hiện thực. Nghị đến điều đó, nhà thơ không khỏi xúc động khi đứng trước lăng Bác. Do đó, lời thơ như một lời thưa thành kính của người con miền Nam mang tin vui ấy, chiến công ấy “khoe” với Người. Tiếng “con” vang lên tha thiết, nghẹn ngào thể hiện niềm xúc động và nỗi vui mừng lớn lao của nhà thơ khi được đến với lãnh tụ vĩ đại, đến với “mặt trời” Việt Nam.
Hình ảnh “hàng tre bát ngát”, “hàng tre xanh xanh” gây ấn tượng mạnh mẽ đối với Viễn Phương. Trước hết, đó là một hình ảnh vừa gần gũi với người dân Nam bộ vừa thiêng liêng đối với nhan dân cả nước. Có người Việt Nam nào lại không biết lũy tre của làng mình? Có người Việt Nam nào lại không cảm nhận được dáng thẳng của tre là dáng hiên ngang của cha ông mình hằng bao thế kỉ?
Chắc chắn, nhà thơ có nhiều xúc cảm khi đang xếp hàng chờ đến lượt được vào lăng. Mỗi độc giả sẽ liên tưởng những cảm xúc khác nhau nhưng tất cả đều là sự thành tâm hướng nguyện lòng mình đến hình ảnh người cha già của dân tộc. Phải chăng từ trong tâm mình, tiếng lòng của tác giả có cả cái rạo rực, náo nức của một người con đi xa nay được trở về nhà – ngôi từ đường thờ phượng tổ tiên – mà lòng cũng thật bình yên và tự hào vì mình vừa bước ra khỏi “Bão táp mưa sa” của cuộc kháng chiến trường kì.
Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu. Lời thơ cuối vừa là một niềm tự hào về sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của dân tộc, vừa như là một lời hứa đinh ninh giữ gìn và phát huy truyền thống đấu tranh quật cường cửa dan tọc đến mai sau.
Cảm nhận của nhà thơ trước cảnh đoàn người xếp hàng vào lăng viếng Bác:
Đứng trước lăng Bác, hình ảnh từng dòng người xếp dài vào viếng Bác khiến nhà thơ suy nghĩ:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Câu thơ trên là một hình ảnh thực, câu thơ dưới là một hình ảnh ẩn dụ. Bác mang ánh sáng hòa bình, độc lập, tự do về cho dân tộc Việt Nam. Bác là mặt trời tư tưởng, của tình yêu thương và lòng nhân từ vô lượng.
Hình ảnh “Kết tràng hoa dâng bảy mùa xuân” gợi nhiều liên tưởng ý nhị. Mỗi người trong hàng người vào viếng Bác đều có lòng thành kính, đẹp như một bông hoa. Tất cả góp lại thành một tràng hoa người dâng tấm lòng thành kính, thương yêu lên Bác.
Bốn câu thơ xen kẽ giữa tả thực và ẩn dụ, nhịp điệu chậm rãi như mô phỏng nhịp điệu trang nghiêm tiến dần từng bước của đoàn người khi vào lăng viếng Bác. Nhịp điệu thơ đã thể hiện rõ những xúc động và suy tưởng sâu sắc của nhà thơ. Hình ảnh thơ trên biểu lộ tấm lòng thành kính, và biết ơn sâu sắc của nhà thơ, của nhân dân đối với Bác Hồ.
Tâm trạng nhà thơ khi bước vào trong lăng, đứng trước linh cữu của Bác:
Nhà thơ diễn tả thật chính xác và tinh tế khung cảnh yên tĩnh, trang nghiêm nơi Bác an nghỉ:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác. Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận Người đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh vầng trăng gợi cho ta nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, sáng trong của Bác. Hai câu thơ vừa tả thực vừa gửi gắm lòng kính yêu vô hạn của tác giả đối với Bác.
Trước cảnh tượng đó, nhà thơ vô cùng xúc động. Tuy lí trí đã nhận thức rằng sự hóa thân của Bác vào non sông đất nước là một lẽ tất yếu của quy luật tự nhiên. Nhưng tình cảm thì không thể không đau xót trước sự ra đi của Người. Từ “nhói” biểu đạt thật tinh tế một nỗi đau cố ghìm nén mà bất chợt dâng tràn. Cảm xúc này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niềm đau xót. Nó chính là nguyên nhân dẫn đến những khát vọng ở khổ cuối bài thơ.
Tâm trạng nhà thơ khi ra khỏi lăng Bác, trở về miền Nam:
Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi đã vội lìa xa vì nhiệm vụ với đất nước hãy còn dài. Nhà thơ không thể lưu luyến mãi được. Càng kính yêu Người, nhà thơ càng phải quyết tâm vượt qua đau thương, vươn đến ánh sáng:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Chỉ mới nghĩ chứ chưa phải là về miền Nam thật đã “trào nước mắt”. Vì rằng, tác giả là một trong những người con miền Nam được viếng Bác, còn hàng vạn đồng bào miền Nam chưa được viếng Người. Vì rằng, con về đây gặp Cha trong khoảnh khắc này, về miền Nam là con phải tiếp tục cuộc hành trình mới của dân tộc còn lắm cam go, mà Cha thì không còn trực tiếp dẫn dắt chúng con được nữa…
Tình cảm ấy làm nảy sinh trong lòng nhà thơ một nước muốn lớn lao: “muốn làm con chim hót quanh lăng”; “muốn làm đóa hoa tỏa hương”; “muốn làm cây tre trung hiếu”. Ước muốn đó của nhà thơ đều quy tụ vào một điểm là mong được ở gần Bác mãi mãi. Không được ở gần Bác trong không gian vì Nam – Bắc cách xa thì ở gần Bác trong lí tưởng.
Hình ảnh “Cây tre trung hiếu” chính là người học trò, người con của Bác trọn đạo “trung với nước, hiếu với dân” như lời dạy của Người. Khổ thơ này có nhịp thơ nhanh và điệp ngữ “làm” thể hiện rõ mong ước thiết tha và nỗi lưu luyến của nhà thơ khi ra về. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam,của mỗi chúng ta nói chung với Bác.
- Kết bài:
Bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Nam vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác. Thành công của bài thơ còn ở thể thơ tám chữ nhịp nhàng, giọng điệu thơ chậm rãi phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng vừa quen thuộc, vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.
QUÁ HAY, QUÁ XUẤT SẮC