hinh-tuong-nhan-vat-tnu

Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong Rừng xà nu.

  • Mở bài:

Rừng xà nu là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyên Ngọc và cũng là một tác phẩm tiêu biểu cho đề tài văn học chống Mĩ trong văn học hiện đại. Viết truyện ngắn năm 1965, Nguyễn Trung Thành muốn phản ảnh lòng yêu nước bất khuất và sức sống kiên cường của người dân Tây Nguyên. Đồng thời, ông cũng muốn khẳng định chân lý của thời đại: “Phải dùng bạo lực cách mạng để đánh đổ bạo lực phản cách mạng”, như lời của cụ Mết “chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”. Rừng xà nu còn tiêu biểu của khuynh hướng lãng mạn và sử thi. Nhân vật trung tâm của truyện ngắn này là nhân vật Tnú – một nhân vật tiêu biểu cho Tây Nguyên bất khuất, một là nhân vật anh hùng trong cả một tập thể anh hùng ấy là buôn làng Xô Man và đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Thông qua hình tượng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đã thể hiện tư tưởng, chủ đề cũng như thành tựu nghệ thuật của truyện ngắn Rừng xà nu.

  • Thân bài:

Tnú là một nhân vật điển hình trong văn học, một  nhân vật điển hình thường được nhà văn xây dựng trong một hoàn cảnh điển hình. Hoàn cảnh chính là môi trường để nhân vật bộc lộ cá tính của mình. Ở đây là buôn làng Xô Man trong những ngày đầu thử thách.

Đọc câu chuyện này, người đọc ấn tượng đầu tiên ở nhân vật Tnú là đức tính trung thực, gan góc, dũng cảm. Tính cách của nhân vật Tnú phát triển nhất quán trong cuộc đời anh. Nó được bộc lộ ngay từ khi Tnú còn nhỏ, đi làm liên lạc, Tnú và Mai được anh Quyết dạy cho cái chữ, học chữ thua Mai, Tnú đã đập bảng, lấy đá ghì vào đầu mình đến chảy cả máu. Chi tiết này cho thấy Tnú là con người trung thực với chính lòng mình.

Đặc biệt sự gan góc dũng cảm của anh được bộc lộ khi Tnú đối mặt với kẻ thù khi Tnú bị giặc bắt và tra tấn vô cùng dã man. Chúng đã hỏi Tnú “Cộng sản ở đâu?” liền với câu hỏi đó, Tnú chỉ tay vào bụng mình trả lời đầy khí phách “Cộng sản ở đây này!”. Chúng ta biết rằng, đằng sau câu trả lời ấy thì lưng anh đã dọc ngang vết chém của kẻ thù.

 

Nhưng ấn tượng hơn cả ở, nhân vật này là đôi bàn tay của anh. Văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ, khi xây dựng hình tượng anh hùng trong cả một tập thể anh hùng, các nhà văn thường bị ám ảnh bởi một số những chi tiết mang được phẩm chất của nhân vật ấy. Ai đã từng đọc tiểu thuyết Hòn đất của nhà văn Anh Đức. Dễ nhận thấy ở đó nhà văn đã mô tả rất sắc nét mái tóc của chị Sứ – mái tóc ấy như linh hồn của chị.

Nguyễn Trung Thành lại bị ám ảnh bởi đôi bàn tay của Tnú, đôi bàn tay của anh là đôi bàn tay mang được  tính cách nhân vật. Đôi bàn tay ấy khi chưa bị giặc tra tấn thì đó là đôi bàn tay tình nghĩa. Đôi bàn tay ấy đã từng lấy đá đập vào đầu mình, từng trừng phạt mình khi hịc cái chữ hay quên. Đôi bàn tay ấy đã từng làm cho Mai xúc động khi Tnú bỏ trốn khỏi ngục Kon Tum trở về, chị ra đón anh tận đầu làng, cầm đôi bàn tay của anh mà giàn giụa nước mắt.

Đôi bàn tay ấy bị giặc tra tấn, tẩm nhựa xà nu đốt. Mười ngón tay ấy trở thành mười ngọn lửa, mười ngọn lửa ấy cộng hưởng lại với nhau để châm bùng lên ngọn lửa đồng khởi của nhân dân miền Nam chống lại cuộc chiến tranh đơn phương  Mĩ.

Đọc câu chuyện này, người đọc dễ dàng nhận thấy ở Tnú có tính kỉ luật cao, trung thành tuyệt đối với cách mạng. Điều này được thể hiện khi anh bị đốt mười đầu ngón tay. Lửa xà nu đã đốt cháy cả hệ thần kinh của anh, chảy cả ruột gan anh nhưng Tnú không thấy lửa ở mười ngón tay mà anh chỉ thấy lửa cháy trong bụng mình, trong ngực mình.

Điều đó chứng tỏ ngọn lửa ấy đã bước qua giới hạn không gian trở thành ngọn lửa căm thù hừng hực trong lòng anh, máu anh mặn chát cả đầu lưỡi anh, răng anh cắn nát môi anh, rồi trong hoàn cảnh đó, Tnú không hề hế răng kêu nửa lời, Tnú luôn tâm niệm lời dạy của Đảng, lời dạy của anh Quyết: “Người cộng sản không thèm kêu van”. Là một người luôn mang trong mình lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng nên Tnú luôn tin tưởng vững chắc vào sự thắng lợi của cách mạng.

Tình yêu thương cũng như lòng căm giận của Tnú mang đậm tính cách của người Tây Nguyên. Hiện lên trong câu chuyện, Tnú là người sống rất nghĩa tình. Anh có lòng yêu thương sâu sắc đối với gia đình và quê hương của mình. Khi còn nhỏ, Tnú là người bạn tốt của Mai, khi trưởng thành anh là người yêu chung thủy của Mai rồi cũng là người chồng, người cha đầy trách nhiệm. Khi giặc đánh đập, tra tấn mẹ con Mai một cách dã man, Tnú đã xông vào cứu mà trong tay không hề có một thứ vũ khí nào. Động lực nào đã làm nên sức mạnh hùng thiêng ở Tnú để anh xông xào kẻ thù bất chấp mọi hiểm nguy?

Sẽ là gì nếu không phải động lực ấy được khơi lên từ một trái tim rực lửa yêu thương cháy lửa căm thù. Tnú là một tấm gương để cụ Mết giáo dục cho thế hệ trẻ ở buôn làng Xô Man. Lòng căm thù giặc sâu sắc ở nhân vật Tnú được gợi lên mạnh mẽ sâu sắc bởi Tnú mang trong mình ba mối thù lớn đối với giặc. Đó là mối thù bản thân anh, mối thù gia đình anh và mối thù của buôn làng anh.

Dọc lưng anh đều ngang dọc những dao chém của kẻ thù, mười đầu ngón tay bị giặc thiêu cháy một đốt, đó là mối thù cá nhân anh, đó là chứng tích của lòng căm thù giặc cao độ mà Tnú mang trong mình suốt đời. Vợ con anh bị giết một cách thảm khốc dưới cây gọng sắt của kẻ thù. Đó là mối thù gia đinh mà anh quyết không đội trời chung.

Những người dân làng Xô Man bị kẻ thù giết hại, những cánh rừng xà nu bị đạn bom tàn phá, mảnh đất quê hương anh bị bom đạn cầy xới, băm vằm. Đó là mối thù của buôn làng mà suốt cuộc đời Tnú không bao giờ nguôi ngoai. Mang trong mình ba mốt thù lớn ấy với đôi bàn tay bị đốt ngón trỏ chỉ còn hai đốt, Tnú vẫn quyết tâm đi tìm giặc để trả thù. Với Tnú đã là thằng giặc thì thằng nào cũng là thằng Dục cả.

Vì vậy, ở cuối câu chuyện với bàn tay cụt đốt, Tnú vẫn bóp chết tên chỉ huy ngay trong hầm cố thủ của hắn với một điều tâm niệm: “Đó là thằng Dục”. Chi tiết nghệ thuật này vừa thể hiện lòng yêu nước, căm thù giặc mang tính cách dân tộc, lại vừa khẳng định chân lí ác giả ác báo. Kẻ thù gây ra tội ác thì chúng phải chết bằng chính cái chứng tích đó.

Dân làng Xô Man có biết bao nhiêu người, bao nhiêu số phận, gia đình phải gánh chịu đau thương của chiến tranh như Tnú. Đọc truyện ngắn chúng ta nhận thấy có những người bị kẻ thù tàn sát treo cổ trên cây và đầu làng thậm chí có những kẻ người bị kẻ thù chặt đầu, cột tóc trên đầu súng. Nhưng bi kịch của Tnú vẫn  mang ý nghĩa điển hình, Tnú mang trong mình ba mối thù lớn sâu sắc với giặc, anh đã lao vào đánh giặc không hề tính toán không hề có vũ khí trong tay. Do vậy, Tnú thất bại nặng nề. Từ sự thật đó, Nguyễn Trung Thành đã đưa ra một chân lý của thời đại chống Mĩ: nếu chỉ có lòng căm thù giặc thôi chưa đủ, thời đại chống Mĩ phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt lực lượng phản cách mạng.

Bi kịch của Tnú khi không có vũ khí trong tay đã thất bại đau đớn trước kẻ thù hung bạo. Nhìn rộng ra, nó cũng là bi kịch của những người dân làng Xô Man khi chưa giác ngộ chân lý của Đảng. Không phải ngẫu nhiên mà ngay phần đầu câu chuyện, Nguyễn Trung Thành đã viết về những đau thương trong chiến tranh. Cả cánh rừng xà nu không cây nào không bị thương tích. “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” đó là lời cụ Mết khi đã giác ngộ ánh sáng của Đảng. Tnú cường tráng khỏe mạnh, vững vàng như một cây xà nu lớn. Chính trong lòng ngực anh là một sức mạnh mênh mang hoang dại của núi rừng Tây Nguyên. Tnú có thừa gan góc đến bướng bỉnh, thừa lòng kiêu hãnh đến dư lòng tự ác. Mặc dù cái ác hiện hình bằng mũi dao, mũi súng hay ngọn lửa, Tnú vẫn không hề khuất phục trước kẻ thù.

Với tất cả sức mạnh về thể chất và tinh thần, Tnú đột phá giữ vòng vây kẻ thù. Nhưng trong tay không vũ khí nên bản thân cũng không cứu được vợ con cũng như những người dân làng Xô Man. Vợ con anh bị giết một cách thảm khốc. Bản thân anh bị giặc đốt cháy mười đầu ngón tay lại chính bằng ngọn lửa cháy từ nhựa xà nu. Điều này muốn nói lên rằng khi Tnú tay không đánh giặc thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết – cái khói chất thơm ngào ngạt như đọng nắng quê hương đó cũng trở thành ngọn lửa thiêu cháy đôi bàn tay vẫn chăm vun trồng, che chở cho rừng xà nu.

Bi kịch của Tnú cũng như bi kịch của những người dân làng Xô Man chỉ có thể giải thoát được khi họ đã “đồng khởi”, cầm vũ khí trong tay ào ạt xông lên chém gục kẻ thù. Dân làng Xô Man nói riêng và đồng bào các dân tộc Tây Nguyên nói chung, khi cầm vũ khí đồng khởi thì không những cứu được cuộc đời của Tnú mà còn cứu được cả các buôn làng.

Là một nhân vật được Nguyễn Trung Thành mô tả vô cùng sống động, cuộc đời của Tnú lúc còn nhỏ cho tới khi trưởng thành đã có sự phát triển về ý thức cách mạng. Con đường giác ngộ cách mạng của Tnú đi từ tự phát cá nhân dần dần đến đấu tranh cách mạng khởi nghĩa, rồi khởi nghĩa vũ trang. Đó cũng là con đường đi của cả buôn làng Xô Man, của các đồng bào dân tộc Tây Nguyên. Con đường đúng đắn đó là con đường nào khác.

Tnú là thành tựu xuất sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn Nguyên Trung Thanh khi xây dựng nhân vật Tnú, nhà văn đã kết hợp rất hài hòa giữa tính dân tộc và tính sử thi.

Như đã nói, Tnú là một nhân vật điển hình, anh tiêu biểu cho con người Tây Nguyên, tiêu biểu cho người Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Chất Tây Nguyên đã thấm đẫm vào nhân vật này từ ngôn ngữ cho đến hành động. Ngôn ngữ của Tnú thường ngắn gọn mộc mạc. Đó là ngôn ngữ đối thoại, nói sâu sắc như dao chém đá, chắc như đinh đóng cột. Hành động của Tnú kiên cường và mạnh mẽ. Từ dáng đứng của Tnú kiên quyết và mạnh mẽ. Từ dáng đi của Tnú cũng có khí thế ào ạt như núi thác cao nguyên.

Nhưng đáng lưu ý hơn cả, toàn bộ tính cách của nhân vật Tnú đều tiêu biểu cho những tính cách con người Tây Nguyên trong những năm bom đạn. Tnú trung thực, gan góc, trung thành tuyệt đối với Đảng. Người Tây Nguyên cũng vậy. Trong chiến tranh, Tây Nguyên đói là thế, khát là thế, người Tây Nguyên chịu nhiều mưa bom đạn. Máu của họ đã đỏ thấm trên mảnh đất này. Nhưng người Tây Nguyên vẫn một lòng trung thành với Đảng.

Cuộc đời của Tnú được kể lại qua lời cụ Mết trong sinh hoạt cộng đồng. Nó mang được tính truyền thống của người Tây Nguyên. Thông qua lời kể từ một già bản, nó làm cho nhân vật Tnú mang đậm sắc con người anh hùng dân tộc. Tnú là một tấm gương để cụ Mết giáo dục lớp trẻ buôn làng Xô Man.

Tnú chính là một nhân vật bước ra từ trong sử thi. Nhân vật ấy bao giờ cũng phải tiêu biểu cho sức mạnh của lí tưởng, sức mạnh của cộng động thường mang một vẻ đẹp kì vĩ. Tnú là một kiểu nhân vật sử thi bởi vì sức mạnh của Tnú chính là sức mạnh của Tây Nguyên bất khuất. Rực cháy trong huyết quản của anh là dòng máu anh hùng của người Tây Nguyên có từ thời Đam Săn, Xinh Nhã….

Khát vọng độc lập tự do của Tnú cũng chính là khát vọng tự do của đồng bào Tây Nguyên, dân tộc Việt Nam. Tnú có thể vững chãi như núi rừng Tây Nguyên. Trong sinh hoạt cùng với lời kể khan của đồng bào Tây Nguyên cho nên nội dung của câu chuyện này đã truyền tải được sự  kiện lịch sử mang tính sử thi.

Cần phải khẳng định tính sử thi trong văn học miền Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ là một đặc điểm nỗi bật và xuyên suốt qua nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn. Từ Hòn Đất của Anh Đức đến Một truyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái cũng đều mang đậm tính sử thi.

Cuộc đời bi tráng của Tnú hiện lên qua những lời kể khan bên bếp lửa bập bùng trong một đêm thiêng với giọng trầm hùng của một già bản càng làm tăng thêm chất sử thi của hình tượng nhân vật này. Đọc truyện ngắn Rừng xà nu ta có cảm giác nhân vật Tnú có phần nào giống anh hùng dũng sĩ trong các trường ca cổ Tây Nguyên.

  • Kết bài:

Phát triển nhân vật Tnú lại là hình ảnh anh hùng Núp trong tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyễn Trung Thành với bút danh Nguyên Ngọc. Ở đây, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tnú – một hình tượng nhân vật điển hình cho Tây Nguyên bất khuất. Với tiểu thuyết Đất nước đứng lên và với truyện ngắn Rừng xà nu Nguyễn Trung Thành đã là một trong những nhà văn đầu tiên mở cánh cửa sáng tác vào mảnh đất Tây Nguyên và xây dựng trên đó những lâu đài văn học nguy nga, tráng lên. Cho tới nay Nguyên Ngọc – Nguyễn Trung Thành vẫn là bút danh viết về để tài Tây Nguyên xuất sắc nhất.

Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành


Tham khảo:

Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng nhân vật Tnú

Nhân vật trong văn học là con người được miêu tả, phản ánh trong tác phẩm văn học. nhân vật có thể có tên có thể không tên nhưng nói chúng đều phản ánh cuộc sống của con người. Nhà văn xây dựng nhân vật để thể hiện nhận thức và tư tưởng tình cảm của mình về con người và cuộc sống. Tô Hoài đã từng nói “nhân vật là trụ cột của tá phẩm văn học vì thế nhà văn chỉ thực sự lớn khi xây dựng được những nhân vật có tầm tư tưởng lớn”

Trong tác phẩm Rừng xà nu Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tnú, một nhân vật trữ tình có đời sống tư tưởng tình cảm cuộc đời và số phận riêng nhưng đồng thời là nhân vật anh hùng nhân vật sử thi kết tinh những phẩm chất cao đẹp của cộng đồng và dân tộc.

Nguyễn Trung Thành đã rất sáng tạo khi miêu tả sự xuất hiện của nhân vật Tnú. Sau ba năm đi lực lượng Tnú trở về làng đêm hôm đó anh ở lại nhà của cụ Mết bên đống lửa xà nu ngoài trời mưa rì rào như gió nhẹ những người dân làng Xô Man ngồi quây quần quanh đống lửa nghe cụ Mết kể về cuộc đời của Tnú và lịch sử đau thương anh dũng của làng Xô Man như vậy sự xuất hiện của Tnú giống như sự xuất hiện của các anh hùng dân tộc Tây Nguyên trong lối kể khan, hát khan của đồng bào các dân tộc tiểu số.

Cuộc đời Tnú lúc còn nhỏ cho đến khi trở thành người chiến sĩ.

Trong lời kể của cụ Mết cuộc đời của Tnú được kể lại từ lúc anh còn nhỏ cho đến khi anh trở thành chiến sĩ. Lúc nhỏ cuộc đời của Tnú rất đáng thương anh là con người của dân làng Xô Man, cha mẹ mất sớm được dân làng cưu mang nuôi dưỡng đùm bọc đặc biệt cụ Mết coi Tnú như con đẻ của mình. Tnú sớm có cái bụng thương núi thương nước thương yêu nhân dân làng xóm đúng như lời cụ Mết “ Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”

Trong thời gian Tnú đi lực lượng không lúc nào anh không nuôi nỗi nhớ thương về làng của anh mà nỗi nhớ day dứt nhất là tiếng chày giã gạo của những người phụ nữ Strá bởi trong âm vang của tiếng chày ấy có hình ảnh của người mẹ, của Mai của Dít và tất cả người phụ Strá những người đã làm nên hạt gạo ngon nhất núi rừng này.

Khi trở về làng Tnú không quên hình ảnh thân thuộc về ngôi làng của mình anh vẫn nhớ con đường cũ qua cái Nà Bắp trong sắn và cây Pomchu đến hai cái dốc đứng sững đã cắt ra từng bục, chui qua một rừng lách rậm ngày mưa vô số vắt lá thì đến cái làng nhỏ của anh. Vì thế về đến làng Tnú đã rửa mặt bằng nguồn nước suối trong trẻo của làng, cho vơi đi nỗi nhớ day dứt trong lòng anh.

Đáng xúc động hơn nữa, trong tình cảm của Tnú dành cho buôn làng đó là anh không quên một người dân nào của làng Xô Man, từ anh Brơi cho đên những cụ già lụm cụm bò xuống cầu thang. Vì thế anh đã súc cho cụ Mết một muỗng muối. Cụ Mết lại chia đều cho mỗi người mấy hạt để ăn sống, ngâm rất lâu trong miệng để nghe cái chát mặn đậm đà tan dần phải chăng chất muối mặn mà cũng chính là tình cảm sâu nặng thủy chung Tnú dành cho quên hương làng xóm

Từ tình yêu với buôn làng Tnú đã mở rộng thành tình yêu gắn bó thủy chung sâu nặng với cách mạng, với kháng chiến bởi vì ngay từ khi Tnú còn nhỏ Tnú đã được cụ Mết người gìn giữ và thắp ngọn lửa cách mạng từ thế hệ này sang thế hệ khác cho hay “ cán bộ là Đảng Đảng còn núi nước này còn” vì vậy ngay từ chặng đầu của cuộc đời Tnú xuất hiện với tư cách người anh hùng Tây Nguyên thời chống Mĩ cứu nước

Trước hết Tnú là một người gan góc táo bạo và đầy quả cảm bất chấp sự vây lùng khủng bố dã man của kẻ thù như bà Nhan bị chặt đầu cột tóc treo đầu súng, anh Xút bị treo cổ trên cây vải đầu làng, Tnú đã cùng Mai xung phong vào rừng bảo vệ anh Quyết người cán bộ kiên trung của Đảng. Đây là một công việc đầy gian khổ và nguy hiểm nhưng Mai và Tnú đã làm rất tốt để người dân làng Xô Man mãi tự hào “ lăm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này” chiến công của Tnú đã trở thành chiến công chung của làng Xô Man

Tnú còn là một người có phẩm chất chính trị trong sáng trung thực thẳng thắn như cây xà nu, Tnú quyết tâm học cho được cái chữ của cụ Hồ để trở thành cán bộ giỏi thay anh Quyết nếu không may anh Quyết bị hi sinh nhưng Tnú học cái chữ rất hay quên “ Học đến chữ i dài nó không sao nhớ nổi cái chữ chi tròn tròn mà có dấu móc và chữ chi có cái bụng to to đứng sau chữ đó” quả thực để đưa cái chữ của cách mạng vào cái đầu rắn như đá của Tnú không phải là chuyện dễ dàng, Trong khi đó Mai lại học rất thông minh. Tnú đã tự phạt mình bằng cách lấy đá dập vào đầu mình cho chảy máu ra. Hàng động này có phần nóng nảy nông nổi nhưng nó biểu lộ ý chí quyết tâm sắt đá của một con người có ý chí. Vì không học được chữ cho nên tự chừng phạt mình cho đau cho nhớ mà cố gắng hơn đồng thời nó cũng thể hiện tình yêu của Tnú với cách mạng.

Mặc dù học chữ thì nhanh quên nhưng làm liên lạc chuyển thư cho anh Quyết Tnú lại có cái đầu sáng lạ lùng Tnú rất thông minh mưu trí sáng tạo gan góc và đầy mạo hiểm đi đường rừng Tnú không bao giờ đi đường mòn vì đi con đường đó bọn giặc thường bao vây khắp các ngả Tnú trèo lên cây cao quan sát một lượt rồi mới xé rừng mà đi. Còn khi đi đường sông Tnú không thích lội chỗ  nước êm, chỗ đó bọn giặc cũng thường phục kích mà Tnú cứ lội chỗ thác mạnh mà bơi ngang vượt lên trên mặt nước cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình. Bọn giặc có bao vây khắp mọi ngã đường cũng không thể chiến thắng nổi sự mưu trí và sáng tạo của Tnú.

Nhưng cuối cùng bọn giặc vẫn cứ phát hiện ra. Trong một lần Tnú vừa quấn cái thư của anh Quyết gửi lên huyện trong một ngọn lá dong định vượt thác thì họng súng của kẻ thù đã chĩa vào tai Tnú lạnh ngắt. Tnú chỉ kịp nuốt lá thư vào bụng để đảm bảo bí mật an toàn của Đảng. Và sau đó bọn giặc đã bắt giam Tnú giam vào nhà ngục Kon Tum. Trong 3 năm bị giam cầm, tra tấn, đánh đập rất dã man ở nhà tù này bọn giặc chỉ hỏi Tnú một câu: “ cộng sản đâu” nhưng Tnú vẫn chỉ tay lên bụng mình và nói: “ Ở đây này”. Để rồi sau đó lưng anh lại vằn dọc vằn ngang những vết chém của kẻ thù. Ở những chỗ vết thương đó máu ứa ra tím thâm như nhựa xà nu.  Những chi tiết đó là minh chứng cho lòng kiên cường dũng cảm và trung thành tuyệt đối với cách mạng của Tnú. Đó là tinh thần “uy vũ bất năng khuất”

Như vậy từ nhỏ cho đến khi trở thành người chiến sĩ Tnú đã trải qua bao thử thách khó khăn gian khổ để vững vàng trong cuộc chiến đấu với kẻ thù

Tnú và bi kịch gia đình.

Sau khi bị giam cầm trong nhà ngục Kontum bằng tinh thần dũng cảm Tnú đã vượt ngục trở về và trực tiếp lãnh đạo nhân dân đánh giặc và Mai- Người bạn từ thủa thiếu thời đã cùng Tnú trưởng thành qua năm tháng thử thách khốc liệt của chiến tranh nay đã là vợ của Tnú. Đứa con trai kháu khỉnh vừa đầy tháng là hoa trái đàu mùa của mối tình thơ ông và thủy chung ấy. Hạnh phúc, gia đình của Tnú đẹp như trăng rằm lung linh tỏa sáng cả núi rừng Tây Nguyên. Song kẻ thù tàn bạo đã đập vỡ tổ ấm hạnh phúc của Tnú một cách không tiếc thương. Bọn thằng Dục đã tra tấn đánh đập Mai và đứa con chưa đầy tháng của Tnú – Người cầm đầu linh hồn của cuộc nổi dậy. Nhưng lúc đó Tnú và làng Xô Man chỉ có tay không.

Đoạn văn miêu tả tâm trạng bất lực của Tnú thật bi thương và tràn đầy xúc cảm, ấn tượng: “ Anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay, anh chồm dậy… ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn” Căm thù lớn nhất trong tim đã thành lửa bùng cháy trong hai con mắt. Một chi tiết thật dữ dội, nó thể hiện lòng sôi sục căm thù và nỗi đau đớn đến tuyệt vọng của Tnú. Không thể chịu nổi nỗi đau đớn và dữ dội này Tnú đã nhảy xổ vào giữa đám lính, hai cánh tay rộng lớn như hai cánh gỗ lim của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai nhưng không kịp nữa rồi. Tnú bị bắt bị trói, đứa bé  đã chết, Mai cũng đã chết rồi nhưng Tnú không khóc, anh gìm nén nỗi đau, cố vượt qua bi kịch cá nhân để tiếp tục sống và chiến đấu. Bị bọn giặc trói bằng dây rừng ném vào góc nhà ưng Tnú không hề run sợ trước cái chết cận kề mà anh cảm thấy mình thật bình thản. Anh nghĩ: “ đứa con chết rồi, Mai cũng chắc chết rồi, Tnú cũng sắp chết” Nhưng Tnú không sợ, điều làm Tnú day dứt nhất chính là không được sống đến ngày cùng dân làng Xô Man nổi dậy giải phóng. Tnú hoàn toàn không nghĩ đến mình nữa, Tnú đặt cái chung, đặt nhiệm vụ lên trên bi kịch cá nhân mình đó là thái độ biến đau thương thành hành động

Tuy nhiên bi kịch của Tnú chưa dừng lại ở đây Tnú còn bị bọn giặc dùng giẻ tẩm nhựa xà nu đốt 10 đầu ngón tay. Chúng định dùng lửa để thiêu rụi ý chí  đấu tranh của dân làng Xô Man, để đốt cháy hệ thần kinh yêu nước của  người cộng sản. Nhưng chúng đã nhầm chúng đã vô hình thắp lên ngọn lửa đồng khởi, gọn lửa đấu tranh của dân làng Xô Man. Một ngón tay Tnú bốc cháy, hai ngón, ba ngón không có gì đượm bằng nhựa Xà Nu. 10 ngón tay của Tnú nhanh chóng trở thành 10 ngọn đuốc sống nhưng kì lạ thay người cộng sản đó không thèm kêu van dù ngọn lửa ấy cháy cả ngực cả bụng, ruột, Máu mặn đắng ở đầu lưỡi răng anh đã cắn nát môi anh rồi, Tnú không thèm kêu van nhưng cụ Mết đã thét lên một tiếng “giết”. Tiếng thét ấy làm rung chuyển núi rừng , làm lay động tâm can con người. Cộng hưởng của tiếng thét ấy là tiếng chân người chạy rầm rập trên nhà ưng tiếng cụ Mết ồ ồ: “chém, chém hết” tiếng thét ấy rở thành ngòi nổ làm bùng cháy cả khối thuốc nổ căm hờn cả dân làng XôMan và trong phút chốc họ đã vùng lên giết chết bọn giặc xác bọn chúng nằm ngổn ngang quanh đống lửa xà nu, thằng Dục đã phải bỏ mạng dưới ngọn mác của cụ Mết

Cuộc đời bi tráng của Tnú đã làm sáng tỏ một chân lí giản dị mà sâu xa của cuộc sống. Chân lí đó đã được cụ Mết truyền dạy cho con cháu “ nghe rõ chưa các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy sau này tau chết rồi bay còn sống phải nói lại cho con cháu : chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo” đó là chân lí của cách mạng được nảy sinh từ mảnh đất Tây Nguyên thẫm máu và nước mắt. Một chân lí nghiệt ngã như tất yếu phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng. Vũ trang chiến đấu là con đường tất yếu tự giải phóng nhân dân.

Vượt qua bi kịch cá nhân, Tnú trở thành người cán bộ người chiến sĩ có tính thần kỉ luật cao.

Từ đây cả dân làng Xô Man vùng dậy cầm lấy giáo mác làm vũ khí chống lại vũ khí tối tân của Mĩ ngụy và chặng đường cầm vũ khí của Tnú được tiếp nối bằng việc đi lực lượng Tnú đã vượt qua mọi đau thương và bi kịch cá nhân tham gia lực lựng quân giải phóng để quét sạch tất cả bọn thằng Dục kẻ thù không đội trời chung với dân làng Xô Man Khi đã trở thành chiến sĩ giải phóng quân Tnú là cán bộ có tinh thần kỉ luật cao tuy nhớ quê hương gia đình nhưng phải được cấp trên cho phép Tnú mới về thăm làng một đêm như quy định để hôm sau Tnú lại lên đường. Chính phẩm chất này đã khiến Tnú trở thành người anh hùng, thành niềm tự hào kiêu hãnh của dân làng Xô Man.

Cuộc đời Tnú gắn liền với hiện tượng độc đáo: đôi bàn tay.

Nhân vật Tnú không chỉ hấp dẫn độc giả bởi phẩm chất tính cách anh hùng mà còn hấp dẫn bởi tính hình tượng của tác phẩm một trong những hình tượng giàu giá trị nghệ thuật, ý nghĩa thẩm mĩ có sức ám ảnh đặc biệt với độc giả là bàn tay Tnú. Đây là một hình tượng có số phận riêng gắn bó mật thiết với cuộc đời Tnú góp phần tô đậm thêm những nét phẩm chất cao đẹp của anh.

Lúc còn nhỏ đó là bàn tay kiên trì làm nương phát rẫy, rồi lấy đá đập  vào đầu mình cho máu chảy ra. Đó là bàn tay của trung thực tình nghĩa bàn tay cầm phấn viết chữ của anh Quyết dạy cho và đặt lên bụng mình mà nói: “ công sản ở đây này”. Đây là đôi bàn tay chí nghĩa bàn tay không biết phản bội bao giờ. Đó còn là đôi bàn tay tình nghĩa đôi bàn tay ấy từng được Mai nắm chặt mà khóc bằng những giọt nước mắt nóng bỏng yêu thương. Bàn tay ấy đã xé tấm dề để Mai địu đứa con thơ và dang rộng vòng tay lần cuối đón mẹ con Mai vào lòng khi giặc đốt 10 đầu ngón tay TNú bàn tay trở thành chứng tích của tội ác và lòng hận thù mà Tnú mang theo suốt cả cuộc đời lòng hận thù ấy biến bàn tay Tnú thành bàn tay quả báo, bàn tay chỉ còn hai đốt mỗi ngón vẫn có thể cầm giáo cầm súng để Tnú lên đường rửa hận và cuối cùng cũng chính bàn tay ấy đã siết vào cổ họng tất cả những thằng Dục ác hơn cả dã thú Tnú đã nói với kẻ thù “ Tao có súng đây, tao có cả dao găm đây nhưng tao không giết mày bằng súng tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục. Tao giết mày bằng 10 ngón tay cụt này thôi tao bóp cổ mày thôi”

Đôi bàn tay Tnú là đôi bàn tay của lịch sử của số phận trở thành biểu tượng cho sức sống bất khuất sức sống mãnh liệt của Tnú và dân làng Xô Man, sức sông ấy như những khu rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương mà vẫn tuwoi xanh bát ngát trải xa tít tắp tận chân trời

Bài học từ cuộc đời nhân vật Tnú.

Thông qua cuộc đời nhân vật Tnú, thông qua câu chuyện kể xúc động và những lời nhắc nhở trang nghiêm, tha thiết của già làng, Nguyễn Trung Thành đã đem đến cho người đọc một nhận thức lớn lao: Tnú có thừa sự dũng cảm, tình yêu, lòng căm thù và ý chí bất khuất, kiên cường, ở Tnú hội tụ tất cả những sức mạnh tinh thần và thể chất phi thường, hoang dại của người tráng sĩ Tây Nguyên, nhưng tất cả những phẩm chất ấy vẫn chưa đủ để anh bảo vệ được cuộc sống của vợ con và chính bản thân mình khi đương đầu với kẻ thù bằng hai bàn tay trắng. Tới bốn lần, trong cả lời trần thuật của đoạn văn và lời kể của cụ Mết, Nguyễn Trung Thành khắc họa bi kịch của Tnú: Tnú không cứu được vợ con!, để từ bi kịch ấy, từ cái chết đau xót của mẹ con Mai, từ hai bàn tay cụt nốt của Tnú, một bài học lịch sử đã được tổng kết thấm thía: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”. Và đặc biệt qua lời dặn thiết tha của già làng: Nghe rõ chưa… nhớ lấy… ghi lấy… nói lại cho con cháu…, bài học ấy mang tính chất vĩnh hằng của một quy luật lịch sử: bạo lực phản cách mạng chỉ có thể bị tiêu diệt bằng bạo lực cách mạng.

Ý nghĩa lớn lao của bài học lịch sử ấy đã được chứng minh ngay trong thực tế chiến đấu oanh liệt của làng Xô Man: khi dân làng đã cầm giáo mác đứng lên chống lại súng đạn của kẻ thù thì tất cả sẽ thay đổi – lửa sẽ được dập tắt trên bàn tay Tnú, lửa xà nu sẽ chỉ soi rõ xác giặc chết ngổn ngang; đuốc xà nu sẽ lại cháy lên để hòa cùng tiếng chiêng hào tráng trong đêm nổi dậy của dân làng; hai bàn tay đã cụt đốt của Tnú cũng sẽ hồi sinh với một sức mạnh trả thù khủng khiếp nhất. Tnú sẽ được sống trong cảm giác tìm lại phần nào những gì mình đã mất: Mai như tiếp tục sống trong hình ảnh người em gái giống chị như hai giọt nước, nhưng nếu người chị chỉ biết nhường nhịn và yêu thương thì Dít lại có thêm đôi mắt cứng cỏi và nghiêm nghị của người chiến sĩ. Đứa con của Tnú và Mai không còn, nhưng sẽ xuất hiện thêm hình ảnh của bé Heng – thằng bé vừa như hình ảnh của Tnú hồi nhỏ, vừa gợi đến triển vọng tương lai: “Nó sẽ còn đi tới đâu, chưa ai lường trước được…

Truyện ngắn Rừng xà nu là câu chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man, khi mở đầu và kết thúc truyện là hình ảnh những đồi xà nu, rừng xà nu nối tiếp tới những chân trời, hình ảnh của sức sống trường tồn, tác phẩm đã đưa đến tầng ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: những người dân Tây Nguyên cầm vũ khí chiến đấu không phải để tiêu diệt mà để chống lại sự hủy diệt, để giữ cho sự sống mãi mãi sinh sôi. Như vậy, trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, con đường đi của Tnú, của dân làng Xô Man, cuộc chiến đấu chống Mĩ và tay sai chính là con đường duy nhất để bảo vệ sự sống của Tổ quốc và nhân dân ta.

Bút pháp miêu tả đặc sắc của nhà văn Nguyễn Trung Thành cùng sự chi phối của khuynh hướng sử thi trong niềm cảm hứng chung của văn học 1945 – 1975 khiến nhân vật Tnú không chỉ hiện lên với những phẩm chất ưu tú của cộng đồng mà còn là một nhân vật có cá tính riêng đặc sắc. Thông qua cuộc đời bi tráng của Tnú, tác phẩm đã ca ngợi lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần chiến đấu kiên cường bất khuất của nhân dân Tây Nguyên, thể hiện mâu thuẫn không đội trời chung giữa nhân dân Tây Nguyên với bè lũ Mĩ – Ngụy. Khái quát chân lí lịch sử lớn lao của thời đại, lí giải sâu sắc và thuyết phục lí do vùng dậy và sức mạnh chiến đấu không gì dập tắt nổi của nhân dân Tây Nguyên, nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh giải phóng đất nước.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật Tnú.

Nhân vật Tnú là kiểu nhân vật sử thi nhân vật anh hùng tính cách cuộc đời và số phận của nhân vật này tiêu biểu cho phẩm chất lịch sử  và cả cộng đồng Xô Man. Tuy nhiên bên cạnh những phẩm chất mang ý nghĩa đại diện Nguyễn Trung Thành còn chú trọng việc khác họa đời sống tình cảm, tâm hồn Tnú vì thế ở nhân vật này có sự thống nhất hài hòa giữa tính sử thi và chất trữ tình

Nhà văn còn đặt Tnú vào tình huống xung dột kịch tính giữa nhân dân, cách mạng với kẻ thù ngoại xâm. Từ đó nhà văn đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm của nhân vật. Vì thế nhân vật hiên lên rất chân thật và cũng rất bi tráng

Ngôn ngữ sử dụng mang đậm màu sắc hơi thở và sự sống Tây Nguyên. Đặc biệt khi miêu tả Tnú nhà văn có sự sắp xếp thời gian rất sáng tao có sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Vì thế nhà văn đã kéo các sự kiện lịch sử diễn ra trong quá khứ đến gần với hiện tại đem đến cho người đọc cảm giác câu chuyện đó vừa mới diễn ra.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang