phan-tich-mot-thoi-dai-trong-thi-ca-hoai-thanh

Phân tích “Một thời đại trong thi ca” của Hoài Thanh.

Phân tích văn bản “Một thời đại trong thi ca” của Hoài Thanh.

  • Mở bài:

Hoài Thanh là một nhà phê bình văn học Việt Nam, đã có những đóng góp về mặt phê bình, lý luận để khẳng định Thơ mới trong văn học Việt Nam thế kỉ XX. Tác phẩm “Thi nhân Việt Nam” do ông và em trai Hoài Chân viết đã đưa tác giả lên vị trí một nhà phê bình lớn của nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20. Văn bản “Một thời đại trong thi ca” là phần mở đầu trong tập “Thi nhân Việt Nam”. 

  • Thân bài:

Nhan đề “Một thời đại trong thi ca” vừa trang trọng vừa có tính khẳng định thành tựu của Thơ mới (1932 – 1945). Phong trào Thơ mới 1932-1945 là phong trào thơ ca lãng mạn làm nên “một cuộc cách mạng trong thi ca” (Hoài Thanh) với những cách tân, đổi mới đầy sáng tạo về cả phương diện nội dung và nghệ thuật đem lại sự đổi thay sâu sắc cho nền thơ dân tộc với đội ngũ thi sĩ đông đảo tiêu biểu như: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Nguyễn Bính… tạo nên sự đa dạng về về phong cách nghệ thuật. Thơ mới như một vườn hoa muôn màu, muôn sắc.

Tinh thần thơ mới là một nội dung nổi bật được Hoài Thanh nói lên thật sâu sắc trong phần cuối bài tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”. Ông chỉ rõ, cái khó trong phê bình đó là ranh giới giữa thơ cũ và thơ mới không rạch ròi, khó nhận ra. Thế nhưng, không để người đọc bị lạc lối trong vườn hoa đầy hương sắc ấy, ông đưa ra cách nhận diện là hãy nhìn vào đại thể, qua mỗi thời đại tiếp nối nhau để nhận ra đặc sắc của mỗi thời đại thi ca. Đó thực sự là một quan điểm khách quan, đúng đắn, khoa học, tránh được phiến diện.

Sau khi chỉ ra hình dáng câu thơ, nhạc điệu câu thơ, sự mềm mại, chỗ ngắt hơi, phép dùng chữ, phép đặt câu,… của thơ mới, ông nói rõ tinh thần thơ mới là điều quan trọng hơn ta hãy đi tìm. Ông đưa ra một tiêu chí là “phải sánh bài hay với bài hay”; ông chỉ ra sự kế thừa của sự vật là “hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ”. Vì các thời đại vẫn nối tiếp theo dòng chảy thời gian nên “muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể”.

Tinh thần thơ mới theo Hoài Thanh biểu hiện rõ nhất ở chữ “tôi”. Trong thơ cũ là chữ “ta”, còn trong thơ mới là chữ “tôi”. Tuy có chỗ giống nhau nhưng vẫn có chỗ khác nhau, đó là điều chúng ta hãy cần tìm hiểu.

Cái “tôi” là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có, là sự tự ý thức về mình. Nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy: quan niệm cá nhân. Lúc đầu chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam “thực bỡ ngỡ“, như một kẻ “lạc loài nơi đất khách”. “Chữ tôi vài cái nghĩa tuyệt đối của nó” lúc đầu xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó đến một mình, “bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu”. Ngày một ngày hai, “mất dần vẻ bở ngỡ rồi được vô số người quen”, cảm thấy “nó đáng thương”, “nó tội nghiệp quá!”.

Bài “Tình già” của Phan Khôi, bài “Trên đường đời”, “Vắng khách thơ” (sau đổi thành “Xuân về”) của Lưu Trọng Lư là ba bài thơ mới được giới thiệu trên báo Phụ nữ tân văn vào năm 1932. Sáu năm sau, 1938, tập “Thơ thơ” của Xuân Diệu ra đời. Ta có thế giới thiệu hai đoạn thơ làm ví dụ để thấy được “hình dáng câu thơ”, thấy được cái tôi từ chỗ “bỡ ngỡ” lúc đầu rồi về sau được “vô số người quen” như thế nào?

Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giáp Mộ
Trong gian nhà cổ
Tôi quay tơ,
Chàng ngâm thơ.
Vườn sau oanh giục giã,
Nhìn ra hoa đua nở,
Dừng tay tôi kêu chàng:
“Này, này! bạn! xuân sang”
Chàng nhìn xuân mặt hớn hở
Tôi nhìn chàng lòng vồn vã

(Xuân về – Lưu Trọng Lư)

Và đây là bốn câu thơ trích trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu:

Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân…

Cái “ta” thống trị trong tư tưởng của nền thơ cũ suốt cả nghìn năm. Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể, chỉ đề cập đến những vấn đề thế sự, lớn lao của dân tộc: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân “chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”.

Những bậc kì tài (như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Tú Xương,…), “thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ”, thẳng hoặc trong thơ văn họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác. Trong thợ cũ thường chỉ có chữ ta, các thi sĩ “ẩn mình sau chữ ta một chữ có thể chí chung nhiều người”.

Bài thơ “Tỏ Lòng” của Phạm Ngũ Lão nêu cao lý tưởng sống của cả một dân tộc. Nhân vật trữ tình trong bài thơ “Cảnh ngày hè” của Nguyễn Trãi cũng mang nỗi buồn nhưng đây là nỗi buồn chung của cả một thời đại, không bộc lộ nỗi niềm riêng tư của con người cá nhân. Tuy vẫn có cái tôi xuất hiện nhưng nó chưa mang ý nghĩa tuyệt đối như thơ mới, vẫn còn đứng khuất lấp sau cái ta chung. Nói như Hoài Thanh: “Chưa giám vỗ ngực xưng tên” vì hòa nhập vào cộng đồng nên tinh thần của con người trong thơ cũ bao giờ cũng đầy tự tin, hiên ngang và khí phách thậm chí kiêu ngạo.

Rượu đến cội cây ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.

(Bà Huyện Thanh Quan)

Gặp ta nay, xuân chớ lạ lùng
Tóc có khác nhưng lòng chẳng khác
Kế từ thuở biết xuân bốn mươi chín năm về trước
Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui
Đến xuân này ta tuổi đã năm mươi
Tính trăm tuổi đời người, ta mới nửa
Rồi sau lại bao nhiêu xuân nữa
Mặc trời cho ta chửa hỏi chi
Sẵn rượu đào xuân uống với ta đi…

(Gặp xuân – Tản Đà)

Tinh thần thơ mới đề cao chữ tôi, bản chất. Đó là cái tôi cá nhân mang ý nghĩa tuyệt đối. Các nhà thơ có ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân. Họ mạnh mẽ bộc lộ những nỗi niềm riêng tư của con người cá nhân: Những nỗi buồn riêng những mong muốn, bế tắc hay cô đơn Họ dám đường hoàng bộc lộ ko sợ sệt không che dấu. “Vội vàng” của Xuân Diệu ý thức mới mẻ về quan niệm sống: sống vội, sống gấp gáp, sống cuồng say.

Vì đứng tách riêng với cộng đồng nên cái tôi trong thơ mới bao giờ cũng cảm thấy nhỏ bé, bơ vơ, cô đơn và tội nghiệp. Nhà thơ đặt cái tôi trong quan hệ với cái ta để tìm ra điểm giống và khác nhau giữa chúng. Họ sống và viết trung thực, sâu sắc và hết sức tinh tế.

Quá trình xuất hiện của cái tôi lúc ban đầu còn bỡ ngỡ dần đi đến cái nghĩa tuyệt đối của nó, hết bỡ ngỡ. Lúc ban đầu, người ta cũng thấy thật khó chịu bởi chưa quen. Lâu dần rồi nhiều người quen. Quen rồi thành thân. Đó là cái mới của thơ mới và các nhà thơ mới. Xuất phát từ cái nhìn chân thực và biện chứng, đem lại giá trị cho luận điểm khoa học.

Theo dõi sự vận động của thơ mới với cái “tôi”, Hoài thanh chỉ ra tính chất tội nghiệp của cái tôi. Nó không có cốt cách ngang tàng. Nó không có tự trọng trước cơ hàn. Nó rên rỉ, nói cái khổ, cái thảm, mất cả bình yên. Điều đó khẳng định tấn bi kịch đang diễn ra trong tâm lí thế hệ trẻ đương thời và của cả thời đại.

Để thoát khởi nó, các nhà thơ đã tự mình tìm kiếm hướng giải thoát. Thế Lữ thoát lên tiên; Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên điên cuồng; Xuân Diệu say đắm trong tình yêu; Huy Cận ngẩn ngơ buồn trong thế giới vạn cổ sầu. Họ tuyệt vọng. Bởi thế, khi tiếp cận Thơ mới, người đọc “càng đi sâu càng thấy lạnh”. Hoài thanh thấy rõ những nổ lực đào sâu và cũng là trốn chạy vào ý thức cá nhân của các nhà thơ mới.

Để người đọc hiểu rõ, Hoài Thanh triển khai thành hai phần. Thứ nhất, ông khái quát hướng tìm tòi, hệ quả chung. Thứ hai, ông điểm qua những gương mặt điển hình cùng lãnh địa cá nhân điển hình để thấy sự phân hóa đa dạng và sự quẩn quanh bế tắc của ý thức cá nhân. Tác giả sử dụng ngôn ngữ phi khái niệm nhưng vẫn diễn đạt được bản chất của đối tượng. Tạo ra hình ảnh một người yêu thơ theo dấu chân các nhà thơ tiêu biểu bước vào cõi riêng của mỗi vị. Đoạn văn giàu hình ảnh, nhịp điệu.

Dễ nhận thấy, Cái “tôi” của thơ mời là cái tôi đầy bi kịch. Cũng muốn nói đến cái khổ sở, thảm hại trước “nỗi đời cay cực” của các nhà thi nhân. Cũng nói đến chuyện lên tiên được sống trong giấc mơ tiên (“Tiếng sáo Thiên Thai” – Thế Lữ). Cũng nói đến say, đến cô đơn (“Say đi em”, “Phương xa”,… – Vũ Hoàng Chương). Hoặc phiêu lưu trong trường tình:

Thuyền yêu không ghé bến sầu
Nhớ đêm thiếu phụ bên lầu không trăng

(Một mùa đông – Lưu Trọng Lư)

Hoặc điên cuồng, hoặc đắm say, hoặc bơ vơ, hoặc ngơ ngẩn buồn:

Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh,
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!
Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo.

(Chế Lan Viên)

Chiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao,
Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó.

(Huy Cận)

Trăng sáng, trăng xa, trông rộng quá!
Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơ

(Xuân Diệu)

Cái tôi làm cho nền hồn thơ giàu bản sắc của thơ mới, đồng thời cũng chứa đầy bi kịch của thơ mới. Cách phân tích của Hoài Thanh vừa khái quát vừa cụ thể, rất tinh tế và tài hoa. Cách dùng từ chính xác, cách dùng điệp từ, dùng tương phản để tạo giọng điệu và cảm xúc, đọc lên nghe rất lí thú: “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Những động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.

Phải nắm được cái hồn của thơ mới, và phải rất tài hoa mới viết đúng và viết hay như vậy. Hoài Thanh như dẫn hồn độc giả nhập vào hồn của thơ mới: “Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta. Chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước”.

Một điểm nổi bật nữa của thơ mới là đã góp phần hiện đại hoá tiếng Việt. Câu thơ co, duỗi tự nhiên. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, giàu cảm xúc và hình ảnh. Các nhà thơ mới đã gửi gắm tấm lòng trân trọng và yêu quý tiếng Việt. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh “tấm lụa”“tấm hồn bạch” để nói lên tình cảm đẹp đẽ đó: “Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng”.

Đoạn cuối của bài tiểu luận “Một thời đại thi ca”, Hoài Thanh đã trân trọng, quý trọng bày tỏ niềm hi vọng đối với thơ mới và các nhà thơ mới “trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng”. Thơ mới cũng như các nhà thơ mới kế thừa và phát huy truyền thống tinh thần nòi giống, sẽ kế thừa những tinh hoa của thơ cũ, nền thơ cổ điển Việt Nam, “tìm về dĩ vãng để vin về những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai”. Điệp ngữ “Chưa bao giờ như bây giờ…”! cất lên ba lần làm cho giọng văn vang lên tha thiết, ân tình.

Cách lập luận từ khái quát đến cụ thể; xa đến gần; ngoài vào trong, diện mạo đến diễn biến lịch sử. Lói hành văn chứng tỏ Hoài Thành rất am hiểu đối tượng phân tích của phương pháp tư duy khoa học tạo tính thuyết phục cao. Phương pháp lập luận gắn với nhận định có tính khái quát, thú pháp so sánh được khai thác triệt để, không nhận định một chiều, dẫn dắt theo mạch cảm xúc. Giọng văn linh hoạt, giàu hình ảnh, nhịp điệu. Tất cả khẳng định tài năng, góc nhìn sắc sảo và tinh tế, am tường về thơ, văn phong tài hoa của nhà phê bình Hoài Thanh

  • Kết bài:

Những năm 1943, 1944, thơ mới như bị “chững lại“. Nhưng rồi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, kháng chiến chống Pháp diễn ra ác liệt đã thổi lửa cho thơ mới và thế hệ những nhà thơ mới. Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ,… đã trở thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, đã góp phần xứng đáng xây dựng và phát triển nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Bảy thập niên sau, đọc “Một thời đại trong thi ca” trong “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, ta hiểu thêm thơ mới, ta yêu thêm lớp thi sĩ tiền chiến của “một thời đại thi ca”.


Tham khảo:

Phân tích văn bản “Một thời đại trong thi ca” (Hoài Thanh).

  • Mở bài:

Hoài Thanh (1909 – 1982) là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là tập phê bình “Thi nhân Việt Nam”. “Một thời đại trong thi ca” là tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, tổng kết một cách sâu sắc phong trào Thơ mới (1932-1945).  Với lập luận chặt chẽ khoa học và một phong cách nghệ thuật tài hoa, tác giả đã nêu rõ đặc trưng tinh thần của thơ Mới là cái tôi cá nhân và số phận đầy bi kịch của nó.

  • Thân bài:

Trong bài viết, theo tác giả, cái khó trong việc tìm ra tinh thần thơ mới. Thơ thời nào cũng có cái hay, cái dở; cái kiệt xuất, cái tầm thường, lố lăng. Bởi thế mà “Giá trong thơ cũ chỉ có những trần ngôn sáo ngữ, những bài thơ chúc tụng, những bài thơ vịnh hết cái này đến cái nọ, mà các nhà thơ mới lại chỉ làm những bài kiệt tác thì cũng tiện cho ta biết mấy”. Theo tác giả, chính sự xáo trộn ấy đã khiến cho việc chọn được bài để so sánh, để cho thật hiểu cái “tinh thần của thơ mới” là không phải dễ.

Nguyên nhân thứ hai khiến cho việc tìm hiểu cái “tinh thần thơ mới” khó là không phải ranh giới thơ mới – thơ cũ rạch ròi, dễ nhận ra. Vì “Âu là ta đành phải nhận rằng trời đất không phải dựng lên cùng một lần với thế hệ chúng ta. Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ. Các thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau…”.

Từ những khó khăn nêu trên, tác giả đã nêu ra những cách nhận diện Thơ mới: “… muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể”. Theo tác giả, điều “cốt lõi” làm nên cái “tinh thần thơ mới”, điều mà thơ mới đưa đến cho thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ là “cái tôi”. Nhà phê bình giải thích: “Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa – hay thơ cũ – và thời nay – hay thơ mới – có thể gồm lại trong hai chữ tôi và Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi”.

Chữ tôi trước đây, nếu có, thì cũng phải ẩn mình sau chữ ta – một chữ có thể chỉ chung nhiều người: “Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả. Cũng có những bậc kì tài xuất đầu lộ diện. Thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ. Và thảng hoặc trong văn thơ họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác. Song dầu táo bạo đến đâu họ cũng không một lần nào dám dùng chữ tôi để nói chuyện với mình, hay – thì cũng thế – với tất cả mọi người”… “Họ phải cầu cứu đoàn thể để trốn cô đơn. Chẳng trách gì tác phẩm họ vừa ra đời, đoàn thể đã dành làm của chung, lắm khi cũng chẳng thèm ghi tên của họ”.

Chữ “tôi” bây giờ là chữ “tôi” theo cái nghĩa tuyệt đối của nó. Nó mang theo “một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân”. “xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Nó cứ luôn luôn đi theo những chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống bây giờ nó đến một mình!”.

Tác giả đã lí giải “chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó” đến với thi đàn một cách bất ngờ, “nhưng, ngày một ngày hai, nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá!”, sở dĩ có điều lạ lẫm ấy là vì “cái tôi” bây giờ không còn cái cốt cách hiên ngang ngày trước như cái khí phách ngang tàng của Lí Bạch, cái tự trọng trước cơ hàn của Nguyễn Công Trứ. “Cái tôi” ngày nay rên rỉ, khổ sở, thảm hại, phiêu lưu trong trường tình, thoát lên tiên, điên cuồng, đắm say, bơ vơ, ngẩn ngơ buồn, bàng hoàng mất lòng tin: “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu ỉ ưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta. Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước”.

Nói chung, Thơ mới nói lên cái bi kịch đang diễn ra ngấm ngầm dưới những phù hiệu dễ dãi trong hồn người thanh niên: “Thời trước, dầu bị oan khuất như Cao Bá Nhạ, dầu bị khinh bỏ như cô phụ trên bến Tầm Dương, vẫn còn có thể nương tựa vào một cái gì không di dịch. Ngày nay lớp thành kiến phủ trên linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hoè phủ trên thi tứ. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều, một điều cần hơn trăm nghìn điều khác: một lòng tin đầy đủ”.  Rơi vào bi kịch, các thi sĩ lãng mạn cũng như “người thanh niên” bấy giờ đã giải quyết những bi kịch đời mình bằng cách gửi cả vào tiếng Việt: “Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”. Vì họ nghĩ: Tiếng Việt “là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua” và vì họ tin vào lời nói triết lí: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”. Họ tin rằng tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa có biến thiên nhưng không sao tiêu diệt được, vì phải “tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ đảm bảo cho ngày mai”.

“Một thời đại trong thi ca” là một tiểu luận phức tạp, phong phú nhưng chúng ta vẫn thấy dễ hiểu và hấp dẫn bởi khi đặt vấn đề tìm đặc sắc của thơ mới, tác giả nói ngay cái khó của vấn đề. Cái khó là cái mới và cái cũ lại thường gặp ở ngay trong các nhà thơ cũ và mới. Nhà thơ xưa vẫn có thể có những cái mới, ngược lại nhà thơ nay cũng có thể còn giữ những cái xa xưa. Cái cũ và cái mới cũng lại thường vẫn liên tiếp nhau qua các thời đại. Cách nhìn như vậy là khách quan, biện chứng và có tính khoa học.

Từ cách nhìn đó, tác giả nêu cách giải quyết bài toán một cách thuyết phục là không nên so sánh từng bài một mà phải so sánh trên đại thể. Khi phân tích đặc điểm của thơ mới, tác giả cũng luôn phân tích “cái tôi” trong nhiều quan hệ để làm nổi rõ bản chất của “cái tôi”. Tác giả đặt “cái tôi” trong quan hệ với “cái ta” để tìm xem những chỗ giống nhau và khác nhau.Đặc biệt là khi tìm cái mới của thơ mới và của các nhà thơ mới, tác giả nhìn vấn đề trong mối quan hệ với thời đại, với tâm lí người thanh niên đương thời để phân tích sâu sắc cái “đáng thương”, đáng “tội nghiệp”, cái “bi kịch” ở họ. Đây là một điểm đáng chú ý về phương pháp luận khoa học của tác giả và là nét đặc sắc về tính khoa học của bài tiểu luận. Những lập luận của bài viết luôn có sức thuyết phục cao vì nó có sự gắn bó chặt chẽ giữa những nhận định, những luận điểm có tính khái quát với những ví dụ có tính minh chứng cụ thể, đa dạng, giàu sức thuyết phục.

Bài viết có một tầm nhìn bao quát về “cái tôi”, “cái ta”, có sự so sánh giữa các câu thơ và nhà thơ cũ, mới trong diễn biến lịch sử chứ không nhìn nhận vấn đề một cách tĩnh tại, đơn giản một chiều. Bài viết có nhiều đoạn có tính khái quát cao, như đoạn: “Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bể rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.

Đoạn văn đã khái quát về sự bế tắc của “cái tôi” và bản sắc phong cách riêng của từng tác giả thơ mới. Mỗi nhà thơ chỉ được khái quát trong mấy từ nhưng cách viết rất giàu hình ảnh, rất mềm mại, uyển chuyển vì thế mà nó có sức khêu gợi cảm xúc cũng như hứng thú ở người đọc.

  • Kết bài:

“Một thời đại trong thi ca” là một mẫu mực đẹp đẽ, một thành tựu xuất sắc của Hoài Thanh trong thể nghị luận văn chương thuộc lĩnh vực phê bình, văn học. Đoạn văn đã nêu bật được tư tưởng thơ mới, thể hiện được cách nhìn nhận thơ mới trong bối cảnh lịch sứ và thực tiễn thơ ca một cách đúng đắn, khoa học. Đó cũng là cách nhìn tiến bộ với hình tượng Thơ mới 1932 – 1941 theo quan điểm lịch sứ xuất phát từ chính con người và hồn thơ của các thi nhân lúc bấy giờ. Cách lí giải của Hoài Thanh đã hơn 60 năm trôi qua mà vẫn rất gần với cách hiểu của chúng ta về thơ mới hôm nay.

Nghị luận: Với Thơ Mới, thi ca Việt Nam bước vào một thời đại mới

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang