Phân tích vẻ đẹp phẩm chất của những người lính lái xe trong tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật
- Mở bài:
Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước, nổi bật với giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc. Tác phẩm nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật bao gồm bốn bài được tặng giải Nhất cuộc thi của báo nghệ năm 1969 và được đưa vào tập thơ vầng trăng quầng (1970) sáng tác trong những ngày cuộc kháng chiến chống Mĩ đầy ác liệt. Nổi bật trong bài thơ chính là hình ảnh những người lính lái xe với vẻ đẹp phẩm chất của họ.
- Thân bài:
Mở đầu bài thơ, tác giả giải thích vì sao những chiếc xe không kính với bút pháp miêu tả trần trụi, chân thực và đầy hóm hỉnh:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Đó là những chiếc xe vận tải chở hàng hóa, đạn dược ra mặt trận, bị máy bay Mĩ bắn phá, kính xe vỡ hết. Động từ “giật”, “rung” cùng với từ “bom” được nhấn mạnh hai lần càng làm tăng sự khốc liệt của chiến tranh.
Trên cái nền ấy, người lính lái xe bất ngờ xuất hiện. Việc thiếu đi những phương diện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ, khó khăn. Tác giả đã diễn tả một cách cụ thể và gợi cảm những ấn tượng, cảm giác của người lái xe trên chiếc xe không kính.
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Câu thơ “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” với điệp từ “nhìn ”và những đối tượng của hành động đất, nhìn ) cũng như tính chất của hành động {nhìn thảng) gợi ra nhiều ý nghĩa sâu sắc: nó vừa nêu bật tính chất can đảm, tinh thần trách nhiệm, hoạt động thường ngày của người lính lái xe vừa thể hiện nghị lực luôn nhìn thẳng vào gian khó, nhìn thẳng vào thực tế khốc liệt của chiến tranh, nhìn thẳng về phía trước với ý chí sẵn sàng, quyết tâm đương đầu với thử thách, chông gai. Giữa bầu không khí căng thẳng với những tiếng “bom giật”, “bom rung”, vậy mà những người chiến sĩ ấy không hề sợ hãi. Họ vẫn có bình tĩnh quan sát mọi thứ trên đường hành quân, từ trên bầu đến cả dưới mặt đất bằng cái “nhìn thẳng” đầy dũng cảm, hiên ngang.
Hơn thế, tinh thần lạc quan, ung dung cũng là một phẩm chất nổi bật của những người lính lái xe. Đó tư thế thong thả, khoan thai, bình tĩnh đến tự tin của những người làm chủ và chiến thắng hoàn cảnh. Ý thơ không chỉ diễn tả được cảm giác về tốc độ trên chiếc xe đang lao nhanh mà còn tượng trưng cho ý chí kiên cường tiến nhanh, tiến mạnh trên con đường ra mặt trận, con đường chiến đấu, con đường cách mạng.
Tư thế “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” qua khung cửa xe không còn kính chắn gió tạo cho họ những cảm giác mới lạ, thoải mái đầy thích thú khi không gì có thể ngăn cách họ với thiên nhiên:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Các anh nhìn thấy từ “gió”, thấy “con đường” rồi đến thấy cả “trời”, “cánh chim”. Thế giới bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác đột ngột cho người lái. Hình ảnh “những cánh chim sa, ùa vào buồng lải”thật sinh động, gợi cảm. Tầm vóc của người lính (và cả những chiếc xe không kính) được nâng bổng lên khỏi hiện thực khắc nghiệt, con đường vùn vụt “chạy thẳng vào tim”, “sao trời” và “cánh chìm đột ngột như sa vào buồng lái vì tốc độ quá nhanh, xe lướt giữa mặt trận và người lính lái xe như thăng hoa trong khoảnh khắc, được sống, được giao hòa cùng thiên nhiên, đất trời:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Những câu thơ “không có kính, ừ thì có bụi”, “không có kính, ừ thì ướt áo” tự nhiên như văn xuôi, lời nói thường ngày thể hiện hình ảnh đẹp, tự tin, khá ngang tàng. Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở Trường Sơn nên chất lính, tính ngang tàng thể hiện rõ nét trong thơ. Ông đã sống trong một thời đại “tiếng hát át tiếng bom”. Người lính xem đây là cơ hội để biểu hiện lòng yêu đời, sự lạc quan để làm quên đi những nguy hiểm. Dòng thơ “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha biểu lộ sâu sắc thái độ ấy:
Giọng thơ ngang tàng, bất chấp gian khổ, thử thách mới ở các câu thơ trên, cùng cấu trúc được lặp lại: “ừ thì”…, “chưa cần”, và những hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc, nhìn nhau mặt lấm cười ha ha trăm cây số nữa làm hiện lên hình ảnh những người lính trẻ trang, hồn nhiên, yêu đời, luôn sôi nổi cùng những tiếng cười sảng khoái, vô tư thật đáng yêu, đáng mến.
Những khoảnh khắc của chiến tranh, giữa sống chết, những người lính trẻ từ những miền quế khác nhau đã gắn bó máu thịt keo sơn thương yêu đậm đà. Và tình đồng chí đồng đội đã được phát huy trong hoàn cảnh ấy:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Khái niệm “gia đình” theo cách diễn đạt của Phạm Tiến Duật thể hiện trong bài thơ cũng mang một nét nghĩa rất mới: yêu thương nhau và gắn với nhau trong từng sinh hoạt giản đơn, được tóm lược vào trong hai hình ảnh: “Bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh”. Cái gì cũng tạm bợ, cơ động, nhiều khó khăn nhưng cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ về chúng lại thật thân quen, tươi tắn và cảm động: “nghĩa là gia đình đấy”. Từ gian khổ, khó khăn, thậm chí là cõi chết từ trong bom rơi, những người cùng chung chiến tuyến, cùng chung lí tưởng “đã về đây” và càng đi họ lại càng “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới” và họ có những “Cái bắt tay qua cửa kính rồi” để chúc mừng hoàn thành nhiệm vụ, là lời động viên nhau bước tiếp trên hành trình mình đã chọn, trở thành biểu tượng cho tinh thần đoàn kết, tình yêu thương đồng đội. Cái “bắt tay” và hành .động “chung bát đũa” đã biểu hiện rõ tình cảm đồng đội đồng chí keo sơn, nhờ đó mà mọi khó khăn gian khổ họ đều vượt qua.
Câu thơ “lại đi lại đi trời xanh thêm” với năm thanh bằng và điệp ngữ đi tạo âm điệu thanh thản, nhẹ nhàng, đã vẽ nên những ngày mai tươi sáng, những ngày vẫn “xanh thêm” niềm tin chiến thắng. “Trời xanh thêm” vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến. “Trời xanh” vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng.
Cuối cùng, không thể không nhắc đến lòng yêu nước của những người lính lái xe. Tình cảm này là một động lực tạo cho họ ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc Mĩ và tay sai để thống nhất Tổ quốc:
Không có kính rồi xe không cỏ đèn
Không có mui xe, thùng xe cổ xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trải tim.
Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ thú vị. Hai câu đầu dồn dập những mất mát khó khăn do quân thù gieo xuống, do đường trường gây ra (xe không kính, không đèn, không mui, thừng xe bị xước) nhưng hai câu sau bật lên lòng yêu nước nồng nàn thể hiện qua quyết tâm chiến đấu. Điệp ngữ “không có ”nhắc lại ba lần cộng với phép liệt kê như nhân lên những thử thách khốc liệt. Hai dòng thơ được ngắt thành bốn phần theo nhịp 3/5 và 4/4: “Không có kính, rồi xe không có đèn / Không có mui xe, thủng xe có xước” như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai bom đạn.
Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại trôi chảy, hình ảnh đậm nét. Đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra tiền tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. Chói ngời, tỏa sáng khổ thơ cả bài thơ là Hình ảnh “trong xe có một trái tim”. Cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết đọng ở hình ảnh này.
Biện pháp hoán dụ cùng nghệ thuật đối lập tương phản đã làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ lái xe. Ẩn sau ý nghĩa dòng thơ “Chỉ cần trong xe có một trái tim” là chân lí của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan quyết thắng, là tình yêu nước nồng nàn, là bầu nhiệt huyết sẵn lòng quên mình vì nước. Câu thơ cuối làm bật lên chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ. Thiếu phương tiện vật chất nhưng những chiến sĩ vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất con người Việt Nam anh hùng như những câu thơ mạnh mẽ sau:
Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí
Sổng chẳng củi đầu, chết vân ung dung
Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hóa anh hùng
Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo.
(Tố Hữu)
Ta xẻ mình ra ngang dọc chiến hào
Cho Tổ quốc liền sông núi vạn đời sau
Việt Nam chịu vạn ngày lửa đạn
Cho nghìn năm nhân loại ngẩng cao đầu.
(Chế Lan Viên)
- Kết bài:
Với thể thơ tự do phỏng khoáng, chất liệu hiện thực sinh động, ngôn ngữ thơ giản dị, giàu tính khẩu ngữ, hình ảnh thơ độc đáo, giọng điệu tự nhiên, khỏe khoắn bài thơ khắc họa thành công hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mĩ với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam mãnh liệt. Hình ảnh ấy đã giúp ta hiểu thêm, tự hào thêm về những ngày kháng chiến gian khổ nhưng đầy khí phách, hào hùng, sôi nổi của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước.