Phân tích vở kịch “Tình yêu và thù hận” của Sếch-xpia
Sếch-xpia (1564 – 1616) là nhà soạn kịch nổi tiếng người Anh thời Phục hưng, một thời đại được đánh giá là “bước ngoặt tiến bộ vĩ đại nhất từ trước đến bây giờ loài người chưa từng thấy”. Đó là thời đại của chủ nghĩa nhân văn, kết tinh khát vọng tự giải phóng khỏi những xích xiềng của chế độ phong kiến và chủ nghĩa khổ hạnh của giáo hội thời trung cổ. Chủ nghĩa nhân văn lên án tất cả những gì kìm hãm tự do của con người, đấu tranh cho con người được hướng quyền sống chính đáng và hạnh phúc tự nhiên ở ngay trên thế gian này.
Vở kịch Rô-mê-ô và Giu-li-ét nói về tình yêu thắm thiết giữa một đôi trai gái thuộc hai dòng họ đang có những mối hiềm thù sâu sắc. Do những xô xát và hiểu lầm, cuối cùng cả hai đều tự tử. Cái chết của họ đã giải toả những oán hờn của cả hai dòng họ. Qua câu chuyện tình yêu say đắm, chung thuỷ đó, Sếch-xpia đã tố cáo nhũng thành kiến dã man, vô nhân đạo của chế độ phong kiến, đề cao sự giải phóng những tình cảm tự nhiên thoát khỏi mọi ràng buộc của đạo đức phong kiến. Hai nhân vật là những hình ảnh đẹp của con người thời Phục hưng : trung thực, hồn nhiên, trong sáng, có ý thức về quyền sống, quyền làm người của mình. Chất trữ tình của nội dung cùng với nghệ thuật xây dựng vở kịch hấp dẫn đã làm cho tác phẩm trở thành kiệt tác trong lịch sử văn học nhân loại. Đoạn trích Tình yêu và thù hận nói về cảnh đầu tiên gặp gỡ và thề nguyền sẵn sàng bất chấp thù hận giữa hai dòng họ của đôi bạn trẻ.
Khung cảnh tỏ tình huyền ảo.
Đoạn trích cần được hiểu như là một cảnh được tái hiện rõ ràng trên sân khấu với tất cả màu sắc, âm thanh, ánh sáng, vườn cây, bồn hoa, nhà cửa, con người, lời nói. Đây là cảnh tỏ tình có một không hai trong lịch sử sân khấu và văn học nhân loại. Màn gặp gỡ, đối thoại lần đầu tiên diễn ra trong một khung cảnh thật huyền ảo. Đêm đã khuya, trăng sáng vằng vặc, hoa thơm ngào ngạt. Rô-mê-ô vượt tường đá cao ngất, vào vườn, hướng tới cửa phòng Giu-li-ét. Giu-li-ét từ trên ban công vươn người ra tâm sự, thổ lộ nỗi lòng mình. Hai bên cùng trao đổi tâm tình say sưa và nồng nhiệt. Nhưng ẩn dưới nền khung cảnh tỏ tình mê hồn đó lại là câu chuyện hận thù, hiểm nguy rình rập. Khung cảnh này, trên thế giới suốt bao thế kỉ, qua nhiều trang sách, qua hội hoạ, qua các cuộc dàn dựng trên sân khấu và điện ảnh, vẫn làm rạo rực bao trái tim con người. Bởi vì, nó chứng tỏ rằng, tình yêu chính là một trong những tình cảm vô tư, đẹp đẽ, cao thượng và nhân tính nhất của con người, tình yêu của tuổi thanh xuân là vĩnh cửu, và bao giờ nó cũng là nguồn cảm húng bất tận của con người.
Tình yêu – niềm say đắm của hai trái tim tuổi trẻ.
Trong đêm dạ hội, vừa mới gặp Giu-li-ét, Rô-mê-ô đã choáng ngợp trước nhan sắc của nàng. Vào đêm khuya, khi dạ hội kết thúc, Rô-mê-ô lại trèo tường vào vườn, đứng dưới cửa phòng Giu-li-ét, để hi vọng gặp được nàng. Với tâm hồn say đắm, Rô-mê-ô nói những lời lẽ ca tụng sắc đẹp của người mình ngưỡng mộ. Dù những lời lẽ đó (đối với người hiện đại) có vẻ khoa trương, bốc đồng, nhưng chỉ những lời khoa trương ấy mới thể hiện được hết cường độ nồng nhiệt của sự mê đắm đến mức mê muội của tuổi trẻ. Thấy bóng Giu-li-ét, Rô-mê-ô thấy choáng váng như gặp mặt trời. (Ta nhớ trong ca dao Việt Nam cũng có những câu : “Thấy anh như thấy mặt trời – Chói chang khó ngó, trao lời khó trao”). Lúc đầu Rô-mê-ô gọi Giu-li-ét là mặt trời, vừng dương đẹp tươi, mà ánh sáng chói chang, rực rỡ của mặt trời đã lấn át cả mặt trăng đang chiếu sáng khu vườn : giết chết ả Hằng Nga héo hon, xanh xao, nhợt nhạt.
Tiếp đến là cảm hứng nồng nhiệt về đôi mắt Giu-li-ét. Rô-mê-ô nhận thấy đôi mắt đó như hai vì sao long lanh, hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời, đã mượn mắt nàng để lấp lánh, toả sáng. Thậm chí đôi mắt nàng đẹp và sáng hơn cả sao trên trời : các vì tinh tú cũng phải hổ ngươi, như ánh sáng ban ngày làm đèn nến phải thẹn thùng, cặp mắt nàng trên bầu trời sẽ rọi khắp không gian một làn ánh sáng tưng bừng đến nỗi chim chóc lên tiếng hót vang vù tưởng đêm đã tàn. Những hình ảnh so sánh đẹp đẽ đầy chất thơ, đậm hơi thở nồng nàn của sự sống, của nhũng tình cảm mê đắm. vẻ đẹp của Giu-li-ét lộng lẫy và rực rỡ đến nỗi Rô-mê-ô tưởng nàng là một thiên thần : nàng tiên lộng lẩy, tỏa ánh hào quang, như sứ giả nhà trời có cánh đang lướt trên những đám mây.
Tất cả những hình ảnh mặt trời, vì sao, thiên thần tỏa hào quang đều tập trung diễn tả vẻ đẹp chói ngời, rực rỡ của nàng Giu-li-ét dưới con mắt đắm say choáng ngợp của chàng Rô-mê-ô. .Khi Giu-li-ét nói rằng tường vườn này cao, vất khó trèo qua làm sao chàng vào được đây, chàng đã khẳng định : Tôi vượt tường này là nhờ đôi cánh nhẹ nhàng của tình yêu ; mấy bức tường đủ ngăn sao được tình yêu. Đôi cánh tình yêu đã giúp Rô-mê-ô có sức mạnh phi thường, không quản ngại nguy hiểm vượt tường để gặp mặt người mình chiêm ngưỡng. Khẳng định điều đó với Giu-li-ét là Rô-mê-ô đã thổ lộ được tình yêu của mình.
Còn Giu-li-ét ? Vừa gặp Rô-mê-ô ở dạ hội, Giu-li-ét cũng lập tức bị mũi tên của thần Ái tình làm cho choáng váng. Sau dạ hội, về phòng riêng, đứng bên cửa sổ, nhìn xuống khu vườn trong đêm thanh vắng, Giu-li-ét không nén nổi lòng mình, đã bật lên thành lời gọi tên người mình say đắm : Ôi Rô-mê-ô, chàng Rô-mê-ô. Những tưởng chỉ có ánh trăng và mùi hương hoa nghe được những lời tâm sự, thổn thức từ trái tim mình, Giu-li-ét chẳng ngại ngần giãi bày lòng mình, với những điều đang ấp ủ trong lòng : Chàng hãy thề là yêu em đi, và em sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piu-lét nữa. Nàng thấy rằng mình yêu Rô-mê-ô chính vì con người chàng : Chàng vẫn cứ là chàng, chàng chẳng mang tên Rô-mê-ô nữa thì mười phân chàng cũng vẫn vẹn mười. Và nàng những mong Rô-mê-ô sẵn sàng vượt qua mối hận thù dòng họ để yêu nàng : chàng đem tên họ ấy, đổi lấy cả em đây. Tình cảm của
Giu-li-ét cũng nồng nhiệt, dạt dào không kém Rô-mê-ô. Đến đây những người xem lại lo lắng. Bởi vì tình yêu đó trong trắng quá, đắm say quá, ngây thơ quá, và thật mong manh quá. Liệu tình yêu đó có thoát khỏi “bóng đen của thù hận muôn kiếp?
Tình yêu vượt qua thù hận.
Tâm trạng của Rô-mê-ô khá đơn giản, khi đối diện với vấn đề thù hận giữa hai dòng họ. Khi biết Giu-li-ét ngại ngần vì chuyện chàng thuộc họ Môn-ta-ghiu, chàng nồng nhiệt sẩn sàng vứt bỏ cả dòng họ của mình : Chỉ cần em gọi tôi là người yêu, tôi sẽ thay tên đổi họ ; từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa ; nếu chính tay tôi đã viết tên đó, thì tôi xé nát nó ra. Khi Giu-li-ét nhắc nhở chàng về mối nguy hiểm vì đang ở trong vườn nhà mình, chàng cũng nhiệt tình không kém : Em ơi , Ánh mắt của em còn nguy hiểm cho tôi hơn hai chục lưỡi kiếm của họ ; em hãy nhìn tôi âu yểm là tôi chẳng ngại gì lòng hận thù của họ nữa đâu. Tuy chàng vẫn biết, vượt tường vào khu vườn là bước vào khu tử địa, nhưng tình yêu đã khiến chàng không hề ngại ngần, lo sợ. Nghĩa là đối với Rô-mê-ô, thù hận giữa hai dòng họ chẳng có nghĩa lí gì, nếu như chàng chiếm được trái tim Giu-li-ét.
Nhưng tâm trạng của Giu-li-ét không hề đơn giản như vậy. Những ý nghĩ của nàng về Rô- mê-ô luôn bị bóng đen của hận thù dòng họ ám ảnh. Băn khoăn đầu tiên của nàng là Rô-mê- ô thuộc dòng họ thù địch và mối tình của hai người chắc chắn sẽ bị những trở ngại to lớn khó vượt qua. Những băn khoăn ấy hiện lên trong những lời lẽ thốt lên từ chính trái tim nàng. Những suy tư, biện luận và đòi hỏi khá ngây thơ : Chàng ơi ! Hãy mang tên họ nào khác đi ? Cái tên nó có nghĩa gì đâu ? Bông hồng kia, giá chúng ta gọi bằng một tên khác thì hương thơm cũng vẫn ngọt ngào. Nhưng cũng rất tỉnh táo, Giu-li-ét nhận thấy : Chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi. Như vậy, thù hận đối với Giu-li-ét cũng chẳng có nghĩa lí gì đối với tình yêu, một thứ tình yêu bắt nguồn từ những tình cảm khát khao rất chân thành, nồng nhiệt của tuổi trẻ.
Nhưng thù hận, cái sức mạnh khủng khiếp và dai dẳng của nó, vẫn không thoát khỏi ý nghĩ của đôi bạn trẻ. Thù hận lại hiện lên trong mối lo sợ của Giu-li-ét. Nó sẽ khiến khu vườn thần tiên này thành nơi tử địa. Nếu như người nhà Ca-piu-lét bắt gặp được Rô-mê-ô, thì chỉ còn cái chết! Nhưng tình yêu trong sáng của hai người đã bất chấp tất cả.
Những tư tưởng nhân văn.
Tinh yêu trong sáng của Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã diễn ra trên cái nền của mối hận thù giữa hai dòng họ. Đó là một mối tình dũng cảm, bất chấp hằn thù lâu đời. Xung đột của vở kịch không chỉ là mâu thuẫn cừu thù giữa hai dòng họ, mà là sự đối chọi giữa hai nền luân lí trung cổ hà khắc và nhân văn của thời đại Phục hưng. Luân lí trung cổ muốn rằng con người phải hi sinh những quyền lợi cá nhân vì dòng họ (mà trong trường hợp này là hi sinh tình yêu chỉ vì hai dòng họ vốn thù địch nhau, nhưng thực sự tình yêu đó chẳng làm ảnh hưởng gì đến dòng họ, bởi vì sau đó, khi họ chết đi, mối hiềm thù giữa hai họ đã bị xoá bỏ). Còn tư tưởng nhân văn của thời đại Phục hưng lại muốn con người thoát khỏi mọi ràng buộc lễ giáo không cần thiết, để cho tình cảm phát triển tự nhiên, không bị kìm hãm. Bản thân mối tình Rô-mê-ô và Giu-li-ét không mang tính bi kịch. Sự bất hoà của thế giới xung quanh, sự thù địch của bố mẹ, họ hàng làm cho số phận của họ trở thành bi kịch.
Muốn nguyên lí nhân bản về tình yêu thắng lợi, phải vượt qua sự bất hoà bên ngoài và xây dựng phong cách sống mới. Đó là tư tưởng của Sếch-xpia trong vở kịch. Vở bi kịch có ý nghĩa lạc quan, bởi Rô-mê-ô và Giu-li-ét tuy chết, nhưng mối tình, đồng thời là thắng lợi tinh thần của họ, là bất tử.
Bài văn tham khảo:
Kết cấu đoạn trích:
Đoạn trích có mười sáu lời thoại, gồm hai loại: sáu lời thoại đầu mang tính chất độc thoại nội tâm, mười lời thoại còn lại là đối thoại. Khi nói chuyện với nhau (có thể là hai hoặc nhiều người) thì lời thoại hướng vào nhau, tạo ra tính chất hỏi – đáp. Trong sáu lời thoại đầu, hai nhân vật không đối thoại với nhau, cho dù trong lời thoại của họ đều có nhắc đến tên nhau. Sáu lời thoại này, về mặt hình thức, là các độc thoại. Các nhân vật nói về nhau chứ không nói với nhau. Độc thoại là nói một mình, tự mình nói với chính mình : “Ấy, khe khẽ chứ !” ; “Ôi ! Đấy là người ta yêu ! Ôi, giá nàng biết nhỉ !” ; “Sao chàng lại là Rô-mê-ô nhỉ…”. Vì các độc thoại này là tiếng lòng của nhân vật, nên xét về bản chất, các lời thoại này là các độc thoại nội tâm. Nhân vật nói ra thành tiếng những suy nghĩ của mình về một đối tượng hay một hiện tượng nào đấy đang ám ảnh mình. Nhân vật nói một mình và chỉ để cho một mình mình nghe. Trong kịch, cho dù lời thoại là độc thoại nội tâm thì nhân vật cũng phải nói to (để khán giả nghe được) và giả định là nhân vật kia không nghe thấy những Ịòi nói đó. Vì là độc thoại nội tâm, nên sáu lời thoại đầu chứa đựng cảm xúc yêu thương chân thành, đằm thắm.
Trên cơ sở ngôn từ mượt mà, cách nói đầy những so sánh, ví von phù họp với tâm trạng phấn chấn, rạo rực chen lẫn bồn chồn của những người đang yêu, cho nên, tuy là lời độc thoại nội tâm song không phải là kiểu phát ngôn đơn tuyến, một chiều mà trong độc thoại đó cũng xuất hiện tính đối thoại. Chẳng hạn, cách nói của nhân vật Rô-mê- ô : lúc thì như nói với Giu-li-ét khi nàng vừa xuất hiện bên cửa sổ (“Vừng dương đẹp tươi ơi…” ; “Hỡi nàng tiên lộng lẫy, hãy nói nữa đi).Lúc thì như đang đối thoại với chính mình (“Kìa, nàng tì má lên bàn tay! Ôi! Ước gì ta là chiếc bao tay, để được mon trớn gò má ấy !” ; “Mình cứ nghe thêm nữa, hay mình nên lên tiếng nhỉ ?”). Tính đối thoại trong độc thoại làm cho lời thoại thêm sinh động. Đây là vẻ đẹp của lời văn Sếch-xpia.
Mười lời thoại còn lại mang hình thức đối thoại, tức là các lời thoại ấy hướng vào nhau, các nhân vật nói cho nhau nghe. Tính chất hỏi đáp, đối đáp xuất hiện. ‘
Về mặt không gian – thời gian của cuộc gặp gỡ : Trước hết là bối cảnh đêm khuya, trăng sáng. Màn đêm thanh vắng với mảnh trăng bạc đang lướt trên trời cao tạo ra chiều sâu cho sự bộc lộ tình cảm của đôi tình nhân. Thiên nhiên được nhìn qua các điểm nhìn của nhân vật. Thiên nhiên như hoà cảm, đồng tình, trân trọng, chở che. Trăng ở đây đóng vai trò trang trí cho cảnh gặp gỡ tình tứ song rất mực đoan chính của đôi tình nhân.
Trong khung cảnh ấy, trăng trở thành đối tượng để Rô-mê-ô so sánh với vẻ đẹp không thể bì được của Giu-li-ét. Cách so sánh mà Rô-mê-ô đưa ra là so sánh Giu-li-ét như “vừng dương” lúc bình minh ; sự xuất hiện của “vừng dương” khiến “ả Hằng Nga” trở nên “héo hon và nhọt nhạt”. Theo mạch suy nghĩ của Rô-mê-ô – tâm lí ngưòi đang khao khát yêu đưong – thì các so sánh này là hợp lí. Sự xuất hiện của Giu-li-ét bên cửa sổ sẽ trở thành “ánh sáng” của “phương đông” và do đó “nàng Giu-li-ét là mặt trời”. Mạch suy nghĩ của Rô-mê-ô hướng vào đôi mắt : “Đôi mắt nàng lên tiếng”. Sự liên tưởng này là hợp lí. Nếu vẻ đẹp của Giu-li- ét được so sánh với “vừng dương” thì đôi mắt của Giu-li-ét được so sánh với các ngôi sao và đó là “hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời”. Sự so sánh được đẩy lên cấp độ cao hơn bằng một sự tự vấn : “nếu mắt nàng lên thay cho sao, và sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia thì thế nào nhỉ ?”. Trả lời câu hỏi ‘‘đôi mắt lên thay sao” chính là khẳng định vẻ đẹp của đôi mắt, vì lúc đó “cặp mắt nàng trên bầu trời sẽ rọi khắp không gian một làn ánh sáng tưng bừng…”. Đối với khía cạnh thứ hai, “nếu sao xuống nằm dưới đôi lông mày” thì lúc đó vẻ đẹp thứ hai của Giu-li-ét sẽ xuất hiện : “vẻ rực rỡ của đôi gò má nàng sẽ làm cho các vì tinh tú ấy phải hổ ngươi”: Các nét đẹp trên khuôn mặt Giu-li-ét lần lượt hiện lên : đẹp của đôi mắt, đẹp của đôi gò má. Từ đó, dẫn tới một khát vọng yêu đương hết sức mãnh liệt : “Kìa, nàng tì má lên bàn tay ! Ôi ! Ước gì ta là chiếc bao tay, để được mơn trớn gò má ấy !”. Sự suy nghĩ cũng như cách so sánh liên tưởng của Rô-mê-ô là hợp lí.
Lưu ý : Trong lời thoại mở đầu cảnh kịch của Rô-mê-ô khi anh so sánh ánh trăng với các vì sao – hiển nhiên là còn ngầm so sánh với vẻ đẹp sáng ngời của đôi mắt, nét mặt của Ju-li-ét với ánh trăng ấy. Trong bối cảnh ấy, Giu-li-ét hiện ra trong con mắt của Rô- mê-ô như một nàng tiên “nàng tiên lộng lẫy”, “như một sứ giả nhà trời có cánh”;… Đây là cảm xúc của một con người đang yêu và đang được tình yêu đáp lại, đây cũng là một sự cộng hưởng tình cảm kì lạ của những tâm hồn đang yêu mà tác giả sếch-xpia đã quan sát và nhận biết một cách tài tình và ông cũng miêu tả hết sức thành công, đạt tới mức điển hình qua tâm trạng đang yêu ấy. Hiển nhiên, tình yêu này là tình yêu chân thành, không vụ lợi và cũng rất hồn nhiên, trong trắng, vẻ đẹp trong trắng này là một phẩm chất của mối tình Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Cái đẹp của bối cảnh làm nền cho sự phát triển của tình yêu trong trắng, cái đẹp của bối cảnh khủng cho phép những người trong cuộc nghĩ xấu về nhau cũng như không tạo ra điều kiện để những suy nghĩ xấu len vào phá đi cái tình cảm hồn nhiên đó.
Sự so sánh được thể hiện dưới các dạng thức hoặc tương đồng hoặc tương phản. So sánh Giu-li-ét là “vừng dương”, là “phương đông”, là “thiên thần”, cho dù Rô-mê-ô chỉ nhìn thấy gương mặt mà chủ yếu qua đôi mắt, gò má và bàn tay… nhưng cách so sánh đó không hề mang tính chất khuôn sáo, tán tụng mà là cách nói chân thành. Sự so sánh ở đây còn hết sức linh hoạt : so sánh người – cảnh, so sánh người – thần tiên… được lồng trong thứ ngôn ngữ của sự đắm say, của sự nồng nhiệt, tất cả nhằm thổi bùng lên ngọn lửa tình yêu để từ đó dẫn dắt hai người đi tới sự chủ động tạo hướng đi cho mối tình của mình.
Nỗi ám ảnh về hận thù giữa hai dòng họ xuất hiện ở Giu-li-ét nhiều hơn, cho thấy nỗi lo kèm theo sự ái ngại về hoàn cảnh của Giu-li-ét. Nàng không chỉlo cho mình mà còn lo cả cho người mình yêu. Thái độ của Rô-mê-ô đối với hận thù giữa hai dòng họ quyết liệt hơn. Chàng sẵn sàng từ bỏ dòng họ của mình, thể hiện sự dũng cảm để đến với tình yêu. Điều mà Rô-mê-ô sợ là sợ không có được tình yêu, không chiếm được tình yêu của Giu-li-ét, (Ánh mắt của em còn nguy hiểm cho tôi hơn hai chục lưỡi kiếm của họ ; em hãy nhìn tôi âu yếm là tôi chẳng ngại gì lòng hận thù của họ nữa đâu). Cả hai đều ý thức được sự thù hận đó, song nỗi lo chung của hai người là lo họ không được yêu nhau, họ không có được tình yêu của nhau. Cả hai đều nhắc tới hận thù song không nhằm khơi dậy, khoét sâu hận thù mà chỉ để hướng tới vượt lên trên hận thù, bất chấp hận thù. Ở đây, sự thù hận của hai dòng họ là cái nền còn tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét không xung đột với hận thù ấy. Đây là sự khẳng định quyết tâm xây đắp tình yêu của hai người.
Sự nhận thức đó dẫn tới độc thoại của Giu-li-ét như là một sự băn khoăn day dứt, một sự dằn vặt thể hiện tâm trạng rối bời trước hoàn cảnh éo le. Các lời độc thoại (2, 4, 6) của Giu- li-ét cho thấy tình yêu mãnh liệt đang bùng lên. Lời thoại thứ hai đơn giản chỉ là một cụm từ cảm thán “Ôi chao”, song nó cho thấy cảm xúc bị dồn nén không thể không thổ lộ ra thành lời, đồng thời cũng hàm chứa một tiếng thở dài mang dáng vẻ lo âu, vì hai lẽ : thứ nhất là hận thù giữa hai dòng họ, thứ hai là không biết Rô-mê-ô có thật sự yêu mình không.
Tâm trạng của Rô-mê-ô đơn giản hơn nhiều. Chàng đã yêu, đã được đáp lại bằng tình yêu và đi tới dứt khoát khẳng định tình yêu, sẵn sàng từ bỏ dòng họ, từ bỏ tên họ mình (lời thoại 7, 9, 11). Các lời thoại 4, 6 của Giu-li-ét là sự thổ lộ tình yêu trực tiếp, không ngại ngùng.
Việc thổ lộ tình yêu trực tiếp qua các lời thoại này không phải để nói với Rô-mê-ô, bởi vì người còn gái thường không chủ động thổ lộ tình yêu với người mình yêu, mà để nói với chính mình. Hơn nữa, Giu-li-ét cũng không hề biết là Rô-mê-ô đang đứng nấp gần đấy. Các lời thoại này cho thấy sự chín chắn trong suy nghĩ của Giu-li-ét qua sự tự phân tích để đi tới khẳng định : “Chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi”. Cách đặt vấn đề của Giu-li-ét rất hồn nhiên, tha thiết và trong trắng, vừa tự chất vấn mình rồi lại tự tìm cách trả lời : “Cái tên nó có nghĩa gì đâu ?” rồi tự đề xuất các giải pháp : “Chàng hãy vứt bỏ tên họ của chàng đi”. Hoặc đề xuất một cách làm có thể nói là táo bạo thể hiện một tình yêu cháy bỏng: Cái tên kia “đâu phải xương thịt của chàng, đổi lấy cả em đây”. Câu trả lời là một giải pháp khẳng định, không có cách lựa chọn hay giải quyết nào khác.
Lời thoại thứ 8, lời của Giu-li-ét, cho thấy sự bất ngờ của nàng khi biết có người đang nhìn mình, đang nghe mình thổ lộ. Sự bất ngờ của Giu-li-ét không tạo ra cảm giác sợ hãi, bởi vì xét về mặt tâm lí, lúc đó Giu-li-ét cũng đang rất cần một sự đồng cảm sẻ chia. Và khi biết được người đang ẩn nấp đó là Rô-mê-ô thì tâm trạng của Giu-li-ét trở nên phấn chấn : “Tai tôi nghe chưa trọn một trăm tiếng thốt từ miệng đó ra mà tôi đã nhận ra tiếng ai rồi”. Song nỗi sợ về mối hận thù giữa hai dòng họ lại loé lên trong suy nghĩ của Giu-li-ét : “Chẳng phải anh Rô-mê-ô, và là họ nhà Môn-ta-ghiu đấy ư ?”.
Vế đầu của câu hỏi này vừa là để hỏi vừa trả lời khẳng định luôn, song vế hai được đưa ra có vẻ không cần thiết, nhưng lại cho thấy nỗi lo ám ảnh Giu-li-ét. Các lời thoại 7, 9, 11 của Rô-mê-ô mang tính khẳng định và quyết tâm được nhấn mạnh bằng các cụm từ “nàng tiên yêu quý”, “nàng tiên kiều diễm” và các động từ dứt khoát : “thù ghét”, “xé nát”. Nhưng Giu-li-ét vẫn e ngại và đưa ra câu hỏi : “Anh làm thế nào tới được chốn này anh ơi, và tới làm gì thế ?”. Câu hỏi này có vẻ như thừa song lại là điều mà Giu-li-ét cần biết. Đó là Rô-mê-ô có thực sự yêu mình không ? Động cơ thúc đẩy anh ta đến có phải là tình yêu chân thành hay chỉ là sự bồng bột thoáng qua ? Nàng sợ Rô-mê-ô không thành thật.
Khi không nghĩ về dòng họ Môn-ta-ghiu nữa thì Giu-li-ét lại nghĩ đến dòng họ Ca-piu-lét của mình và khẳng định vị trí nơi hai ngưòi đang nói chuyện là “nơi tử địa” mà “nếu anh bị họ hàng nhà em bắt gặp noi đây”, “Họ mà bắt gặp anh, họ sẽ giết chết anh”. Đó chưa kể là khó khăn cụ thể trước mắt đối vói Rô-mê-ô : “Tường vườn này cao, rất khó trèo qua”. Như vậy, Giu-li-ét đã nhận thức được các bức tường đang ngăn cách họ : bức tường đá của vườn nhà, bức tường của hận thù giữa hai dòng họ mà Rô-mê-ô có dám vượt qua không và bức tường – tình cảm – của Rô-mê-ô có thật lòng không ?
Các bức tường lần lượt được dỡ bỏ. Trước hết, điều mà Giu-li-ét cần nhất là tình yêu chân thành của Rô-mê-ô. Điều này được khẳng định ở lời thoại thứ 13, lời của Rô-mê-ô, mà ở đó cụm từ “tình yêu” được nhấn mạnh bốn lần với một sự khẳng định dứt khoát : “cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm”. Bức tường thù hận được dỡ bỏ bỏi chính quyết tâm của hai người, nhất là quyết tâm của Giu-li-ét trong lòi thoại 16 : “Em chẳng đời nào muốn họ bắt gặp anh nơi đây”. Còn bức tường đá của vườn nhà thì đã có “đôi cánh nhẹ nhàng của tình yêu” giúp đỡ.
Diễn biến nội tâm của Giu-li-ét là phức tạp, song phù họp với tâm lí của người đang yêu, đồng thời cũng cho thấy sự chín chắn trong tình yêu của Giu-li-ét. Sự day dứt trong tâm trạng đó cho thấy sức ép nặng nề của hoàn cảnh, thấy được sự vây hãm của mối hận thù truyền kiếp giữa hai dòng họ, thấy được mối nguy hiểm đang đe dọa cả hai người. Trong toàn vở bi kịch Rô-mê-ô và Giu-li-ét, xung đột cơ bản là xung đột giữa tình yêu và thù hận. Tuy nhiên, trong đoạn trích này, thù hận không xuất hiện như một thế lực cản trở tình yêu. Thù hận chỉ hiện ra qua suy nghĩ của các nhân vật, song không phải là động lực chi phối, điều khiển hành động của nhân vật.
Đối vói Rô-mê-ô, chàng đã gặp Giu-li-ét, đã có được tình yêu của Giu-li-ét và sẵn sàng làm tất cả vì tình yêu ấy (các lời thoại 7, 9, 11). Đối vói Giu-li-ét, sự xuất hiện cảm thức về các bức tường cản trở là có thật. Điều này phản ánh sự chín chắn trong suy tư của nàng, song đây không phải là sự tính toán thiệt hơn. Điều mà Giu-li-ét cần là tình yêu chân thực của Rô-mê-ô, và tình yêu của Rô-mê-ô dành cho nàng là tất cả. Cho nên, khi biết chắc chắn Rô- mê-ô đến với mình bằng tình yêu thì mọi nghi ngại, mọi băn khoăn trong lòng Giu-li-ét
cũng chấm dứt. Như vậy, trong đoạn trích gồm mười sáu lời thoại này, tình yêu không xung đột với thù hận mà chỉ diễn ra trên nền thù hận. Thù hận bị đẩy lùi, bị xoá đi vĩnh viễn, chỉ còn lại tình người, tình đời bao la, phù hợp với lí tưởng nhân văn. Chính vì lẽ đó, tác phẩm Rô-mê-ô và Giu-li-ét trở thành bài ca ca ngợi và khẳng định tình yêu cao đẹp. Vấn đề tình yêu và thù hận về cơ bản đã được giải quyết.
Tuy nhiên, Rô-mê-ô và Giu-li-ét là một vở bi kịch ; tính chất bi kịch của mối tình thể hiện qua vị trí của hai ngưòi : chỗ đứng của Rô-mê-ô là trên bức tường rào xung quanh nhà Giu- li-ét. Cho dù bức tường ấy bằng đá nhưng bức tường ấy chỉ để chở che cho gia đình Ca-piu- lét, nghĩa là cho một thế lực hận thù có thể đe doạ trực tiếp tính mạng của Rô-mê-ô. Chỗ đứng của Giu-li-ét : là cửa sổ của căn phòng riêng của nàng, cho dù có các bức tường của căn phòng che chở song đó cũng là những bức tường của sự ràng buộc của vòng lễ giáo.
Giữa họ là một khoảng không gian không quá rộng song cũng chẳng đủ hẹp để họ có thể nắm tay nhau. Họ chỉ có thể nói với nhau, có thể nhìn nhau trong vị thế khá chênh vênh (nhất là đối vói Rô-mê-ô). Tuy nhiên, cái khoảng không vắng lặng ấy lại ẩn chứa nhiều mối nguy hiểm nhất là mối thù của hai dòng họ. Có thể bất chợt một người nào đó của nhà Ca- piu-lét xuất hiện. Cho nên, sự thinh lặng của không gian hàm chứa trong nó yếu tố bi kịch, yếu tố đe dọa tới tính mạng của hai người cũng như cho chính hạnh phục mà cả hai đang hướng tới. Người xem lo sợ cho những hiểm nguy rình rập họ, tạo ra hiệu quả nghệ thuật về một sự đồng cảm giữa người xem và nhân vật. Ở đây có hai không gian lồng vào nhau : không gian của đôi tình nhân (mà ở đó mảnh trăng dát bạc lên các ngọn cây trĩu quả như để ngụy trang, như để đánh lừa) và không gian của sự thù địch. Sự thù địch này xuất hiện ngay từ những lời thoại đầu tiên, thỉnh thoảng lại loé lên trong câu chuyện của hai người như một sự nhắc nhở (Họ mà bắt gặp anh, họ sẽ giết chết anh).
2. Ngôn ngữ nghệ thuật.
Ngôn ngữ kịch hết sức tự nhiên, nhuần nhị, phù hợp với đề tài, với nhân vật và là cách nói của tình yêu say đắm, hòa hợp, chân thành. Đây cũng là cách nói, lối nói, hình thức nói của một thời đại mà ở đó con người khát khao được giải phóng, khát khao cái mới.
Sắc thái biểu cảm ngôn từ của hai nhân vật, ngôn ngữ vừa sống động vừa hàm súc và đầy chất thơ. Ngôn ngữ của nhân vật còn thể hiện nỗi bức xúc không thể nén được của tình cảm yêu thương đã bùng phát giữa hai người, nỗi bức xúc phải thổ lộ, phải giãi bày cho dù chỉ để nói với chính mình thôi (tức là cách thức tự hỏi rồi lại tự trả lời) hay phải vượt tường để đến vớii nhau cho dù mọi nguy hiểm vẫn đang rình rập mà động lực cho hành vi ấy chính là sức mạnh của tình yêu : “cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm”. Tuy nhiên, đây là tình yêu từ hai phía, có sự rung động mãnh liệt và đồng cảm giữa hai bên chứ không phải là tình yêu đơn phương.
Cách nói, lối nói hồn nhiên của cả hai người, cách sử dụng lối nói của nhau để xoá đi sự ngăn cách mà hận thù tạo ra, đồng thời cho thấy sự lo lắng tràn đầy yêu thương mà Giu-li-ét dành cho Rô-mê-ô và sự dũng cảm khi Rô-mê-ô chấp nhận mạo hiểm để đến tìm Giu-li-ét. Tình yêu trở thành sức mạnh chở che cho đôi tình nhân cũng như tạo cho họ quyết tâm gắn bó trọn đời với nhau.
Qua câu chuyện tình yêu say đăm, chung thủy, Sếch-xpia một mặt biểu dương những con người mới đã tuân theo tự nhiên, giải phóng tình cảm khỏi mọi ràng buộc của đạo đức phong kiến, một mặt chỉ ra rằng chế độ phong kiến là một tai họa đối với hạnh phúc của con người. Nhân vật Giu-li-ét là một hình ảnh vô cùng đẹp đẽ về hình ảnh người phụ nữ thời đại Phục Hưng: trung thực, hồn nhiên, trong sáng, có ý thức về quyền sống và nhân cách của mình. Chất trữ tình của nôi dung cùng với tài năng xây dựng vở kịch khéo léo, hấp dẫn đã làm cho Romeo và Juliet trở thành một kiệt tác trong lịch sự văn học nhân loại.
Đoạn trích toát lên một vẻ đẹp đặc biệt: vẻ đẹp của tình yêu và vẻ đẹp của thiên nhiên thơ mộng làm bối cảnh cho tình yêu ấy.
Vẻ đẹp của tình yêu :
– Vẻ đẹp toát lên từ hoàn cảnh khác thường : Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét ra đời trong hoàn cảnh thù địch, giữa hai dòng họ thù địch. Mối tình đó có dẫn tới sự thay đổi tình thế, hoàn cảnh và quan niệm sống không ?
– Vẻ đẹp toát lên từ sự đồng cảm, đồng điệu và tự nguyện :
+ Tình yêu ở đây là kết quả của sự gặp gỡ giữa trai tài và gái sắc. về Rô-mê-ô thì chính Ca- piu-lét cũng phải thừa nhận bằng một câu nói đầy ấn tượng : “Cho ta tất cả của cải trong thành này, ta cũng không thể làm điều gì xúc phạm tới anh ta”. Còn về vẻ đẹp của Giu-li-ét có thể thì thấy được qua nhận xét của Rô-mê-ô khi chàng đứng ngắm nàng trong đêm. Phân tích lời thoại thứ nhất và lời thoại thứ sáu để làm nổi bật các ý trên.
+ Tình yêu ở đây là tình yêu tự nguyện, không bị một sự ép buộc, xếp đặt nào mà là tình yêu của con tim đến với con tim, là sự hoà điệu của tâm hồn và tình cảm. Họ đến với nhau bằng tình yêu tự nguyện xuất phát từ việc họ nhận thức được : họ sinh ra là để cho nhau, không có cái gì có thể chia lìa họ được. (Những ý nào trong các lời thoại cho thấy điều đó ?)
– Vẻ đẹp toát lên từ sự hiểu nhau và tôn trọng lẫn nhau :
Tình yêu ở đây hiện ra với vẻ đẹp trong sáng. Họ ca ngợi nhau, tỏ tình với nhau bằng những lời hoa mĩ nhưng hết sức chân thành vì đó không phải là lời nói của cửa miệng mà lời nói của trái tim.
Vẻ đẹp của thiên nhiên thơ mộng.
– Thiên nhiên hoà hợp :
Thiên nhiên ở đây trở thành bạn của con người, tạo ra bối cảnh thơ mộng cho cuộc tình của đôi trai gái. Thiên nhiên tự nó cũng có vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp của thiên nhiên tôn tạo cho vẻ đẹp của con người, trở thành đối tượng để so sánh với vẻ đẹp của con người.
– Thiên nhiên thanh bình :
Thiên nhiên tạo ra bức bình phong che chở cho cặp tình nhân, tạo cho họ cảm giác yên bình. Thiên nhiên hiện ra ở đây không dữ dội, không đe doạ. Đêm tối trở thành môi trường của tình yêu. Đêm tối ngăn không cho những cặp mắt rình mò xoi mói, bắt cái hận thù phải chìm trong giấc ngủ nặng nề, bắt mọi vật phải im tiếng để cho tình yêu lên tiếng, cho tình yêu có cơ hội giãi bày. Đây là kiểu thiên nhiên hoà cảm thường gặp trong văn thơ có tác dụng nhân lên sức mạnh của tình yêu, thúc đẩy sự phát triển của tình yêu.
– Sự hoà quyện giữa tình và cảnh:
Đây là một vẻ đẹp riêng của mối tình Rô-mê-ô và Giu-li-ét, thể hiện trong tình có cảnh, trong cảnh có tình. Tình và cảnh hoà quyện vói nhau không tách ròi nhau và càng không thể chia lìa, tách bạch giữa tình và cảnh. Tình ấy phải ở trong cảnh ấy và chỉ cảnh ấy mới nảy sinh tình ấy. (Anh (chị) có suy nghĩ gì về nghệ thuật miêu tả tâm lí của U. sếch-xpia ở đây ?)
Vẻ đẹp của tình yêu được lồng trong bối cảnh thiên nhiên thơ mộng cho thấy khát vọng bình yên, mong muốn hạnh phúc trọn vẹn của con người, không chỉ trong thời Phục hưng mà ở mọi thời đại.
“Anh làm thế nào tới được chốn này, anh ơi, và tới làm gì thế ? Tường vườn này cao, rất khó trèo qua ; và nơi tử địa, anh biết mình là ai rồi đấy, nếu anh bị họ hàng nhà em bắt gặp nơi đây.’’ Đây là một lời thoại rất tiêu biểu của Giu-li-ét, cho thấy những giằng xé trong nội tâm của người con gái này. Trở ngại trong tình yêu giữa hai người được thể hiện qua hình ảnh các bức tường hữu hình và vô hình.
– Nỗi lo lắng về bức tường hữu hình.
Là bức tường cụ thể, bức tường vây quanh nhà Giu-li-ét : “Tường vườn này cao, rất khó trèo qua”. Dưới con mắt của Giu-li-ét thì tường là cao và rất khó trèo qua. Trong cách nói đó, có sắc thái cảm thông và động viên không ? Và tường có thể rất cao thì Rô-mê-ô có dám trèo qua không ? Đây không chỉ là thử thách về sức lực mà chính là thử thách lòng can đảm.
– Nỗi lo lắng về các bức tường vô hình:
Bức tường vô hình thứ nhất là bức tường của thù hận, thể hiện qua lời thoại của Giu-li-ét: đây là “nơi tử địa, anh biết mình là ai rồi đấy, nếu anh bị họ hàng nhà em bắt gặp nơi đây”, “anh làm thế nào tới được chốn này”. Sự đe doạ được nhấn đi nhấn lại ở đây bằng trực cảm về cái chết. Thử thách này đòi hỏi Rô-mê-ô phải có đủ dũng cảm để có thể đến với người yêu.
Bức tường vô hình thứ hai chính là tình cảm của Rô-mê-ô : “Anh ơi, và tới làm gì thế ?”. Đây mới là bức tường vô hình quan trọng nhất, mới là điều mà Giu-li-ét cần Rô-mê-ô vượt qua nhất. Nàng muốn thử thách tình yêu của Rô-mê-ô, muốn kiểm tra động cơ hành động của chàng, cần chú ý là trước đó, những lời độc thoại của Giu-li-ét đã được chính Rô-mê-ô nghe thấy. Việc có mặt của Rô-mê-ô lúc đó cần phải được giải thích hợp lí là trái tim đến với trái tim, là tình yêu đi tìm tình yêu, là những người yêu nhau đi theo tiếng gọi của tình yêu.