Phân tích đoạn trích “Hạnh phúc một tang gia” (trích “Số đỏ” của Vũ trọng Phụng).
- Mở bài:
Vũ Trọng Phụng là cây bút trào phúng bậc thầy, một trong những đại biểu xuất sắc của xu hướng văn học hiện thực. Ông được xem là “vua phóng sự đất Bắc”. Tác phẩm của Vũ Trọng phụng chủ yếu viết về sự tha hóa của con người, giọng văn của ông có pha chút hài hước dí dỏm nhưng đó là tiếng cười của sự châm biếm. Ông luôn đứng về phía người lao động nghèo, lên án vạch trần cái ác, cái xấu. Đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” là đoạn tiêu biểu trong tiểu thuyết “Số đỏ” – một đóng góp lớn về cả nội dung và nghệ thuật trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Thân bài:
1. Ý nghĩa nhan đề.
“Hạnh phúc” là trạng thái vui sướng của con người khi thỏa mãn được khát vọng tha thiết trong đời, còn “tang gia” là tình trạng buồn đau, tang tóc, mất mát của cả một gia đình khi có người thân qua đời. Với nhan đề “Hạnh phúc của một tang gia”, Vũ Trọng Phụng đã làm nổi bật sự đối lập giữa hạnh phúc và tang gia, giữa cái thật và cái giả, giữa cái bản chất bên trong và biểu hiện bề ngoài của con người và xã hội thượng lưu.
2. Biểu hiện cụ thể của niềm hạnh phúc:
a. Niềm hạnh phúc chung:
– Nguyên nhân: Cụ cố tổ 80 tuổi mà chưa chết, có tài sản đồ sộ, cụ cố tìm đến luật pháp chỉ khi cụ chết thì tài sản mới được. Đám con cháu tìm đủ mọi cách, mời thầy nổi tiếng gây ra hậu quả, tìm ra thứ thuốc để cho cụ cố chết.
– Biểu hiện của niềm hạnh phúc:
+ “Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm”.
+ “Tưng bừng đưa giấy cáo phó …”.
→ Vui vẻ, sung sướng, tưng bừng.
b. Niềm hạnh phúc riêng của đám con cháu:
+ Cụ cố Hồng: nằm hút thuốc phiện, nhắm nghiền mắt, mơ màng muốn mặc đồ xô gái, chống gậy à mong muốn già để cho mọi người trầm trồ, nói 1872 lần “ Biết rồi khổ lắm nói mãi” à Trưởng giả học làm
+ Cụ bà: có sự xuất hiện của sư phụ Tăng Phú, lề lối, lôi thôi, một điều danh dự cho đám tang cụ cố
Ông Văn Mình: băn khoăn chờ đợi luật sư đến để thực hiện quyết định chia tài sản.
+ Bà Văn Minh: Chờ đợi để mặc bộ đồ xô gai tân thời, khoa mốt mới, chờ đợi báo chí.
+ Ông Phán mọc sừng: Bán đôi sừng hưu trên đầu mình, cho thêm con rể tiền.
+ Cô Tuyết: Dịp mặc bộ đồ Ngây Thơ để muốn nói với mọi người rằng cô chưa đánh mất chữ trinh, chưa hư hỏng, Tuyết rủ Xuân tóc đỏ vào nhà nghỉ, tin đồn lan xa, cụ cố tổ lăn ra chết, cô buồn vì Xuân đi đâu không thấy về.
+ Cậu Tú Tân: có dịp dùng đến máy ảnh mà bấy lâu nay không có dịp sử dụng, sử dụng như một đạo diễn.
c. Niềm vui của những người ngoài gia đình.
+ Hai vị cảnh sát Min Đơ, Min Toa sung sướng cực điểm à Thích thú giữ trật tự.
+ Bạn bè cụ cố Hồng: Khoe đủ thứ huân chương, bộ râu à Phô trương không đúng lúc.
+ Sư cụ Tăng Phú: sung sướng, vênh váo.
+ Xuân tóc đỏ: Ham tiền tài, tình, danh vọng.
+ Hàng phố: nhốn nháo xem đám ma to, có cơ hội tán tỉnh ve vãn.
+ Ông TYPN: mừng như mở cờ trong bụng vì nhân có tang gia mà được lăng xê những mốt tang phục đặc sắc nhất của tiệm may Âu Hóa.
→ Đó chính là sự suy đồi về đạo đức, tha hóa về nhân cách. Lời tố cáo của tác giả đối với xã hội âu hóa, không ai thương cho người nằm xuống.
2. Cảnh tượng đám ma gương mẫu.
– Cảnh cất đám và đưa đám.
+ Âm thanh: Tiếng kèn xuân nữ não nùng. Lốc bốc xoảng và bú dích (Kèn Tây). Kèn Tây, kèn Ta, Kèn Tàu lần lượt thi nhau → Đám tang đi đến đâu huyên náo đến đấy.
+ Hình ảnh: theo lối Tây, Ta, Tàu à To tát, linh đình, hố lớn.
– Người đi đưa tang: vài ba trăm người đi đưa, từ già đến trẻ, đủ thành phần xã hội.
+ Đại diện cho lớp già: Khoe đủ thứ huân chương, bộ râu.
+ Đại diện cho lớp trẻ (trai thành gái lịch) : mang bộ mặt buồn rầu, đua nhau cười tình.
→ Thiếu tình người, sự đau xót, mỉm cười chua chát, gật gù với đám con cháu bất hiếu.
– Điệp khúc “Đám cứ đi”.
+ “Đám”: Đám tang >< đám rước hội, đông vui.
+ “Cứ đi” : Thản nhiên, mặc kệ dư luận dèm pha.
b. Cảnh hạ huyệt
– Đại tả với hai chi tiết:
+ Dưới sự chỉ đạo của cậu Tú Tân làm ra vẻ mặt buồn, tạo dáng chụp ảnh.
+ Nhảy trọng đám tang của bạn cậu Tú Tân.
– Đóng kịch, khóc thương, kịp thời hợp tác doanh thương, đưa tiền cho Xuân tóc đỏ
→ Diễn trên sân khấu đám tang. Đó là những diễn viên đa tài.
3. Ngôn ngữ và lời văn hài hước
a. Ngôn ngữ đa thanh.
– Cách dùng từ:
+ Gọi tên nhân vật độc đáo.
+ Cách đặt tên nhân vật gây cười.
+ Cách diễn đạt có lý, vô lý.
+ Cách so sánh, ví von hài hước.
+ Cách đặt câu chứa đựng mâu thuẫn trào phúng.
b. Lời văn hài hước.
– Lời bình luận hài hước, sâu cay.
c. Nghệ thuật trào phúng:
+ Xây dựng tình huống trào phúng.
+ Cảnh tượng trào phúng.
+ Chân dung biếm họa.
- Kết bài:
– Vạch trần, phê phán bản chất lố lăng đồi bại của xã hội đương thời. Giống lên tiếng chuông cảnh tình vì sự xuống cấp đạo đức của con người Việt Nam hôm nay, hôm qua, tương lai.
Phân tích đoạn trích “Hạnh phúc một tang gia” (trích “Số đỏ” của Vũ trọng Phụng).
- Mở bài:
Vũ Trọng Phụng (1912 – 1939) là một trong nhà văn hiện thực phê phán lớn nhất của nền văn học Việt nam thế kỉ XX. Tuy chỉ có 10 năm sáng tác thế nhưng Vũ Trọng Phụng đã để lại một kho tác phẩm đáng kinh ngạc: hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch, cùng một bản dịch vở kịch từ tiếng Pháp, một số bài viết phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. “Hạnh phúc một tang gia” là chương XV của tiểu thuyết “Số đỏ”, một tác phẩm kinh điển của nền văn học hiện thực phê phán thế kỉ XX.
- Thân bài:
Tiểu thuyết “Số đỏ” ra đời năm 1936 – năm đầu của mặt trận dân chủ Đông Dương. Xã hội Việt Nam bị nền văn hóa phương Tây xâm nhập, giai cấp tư sản thành thị đang chạy theo lối sống lố lăng, đồi bại đương thời. Xuân tóc đỏ, nhân vật chính của tác phẩm, từ một tên “nhặt banh quần”, sống cù bơ cù bất, nhân cách đồi bại, đã vương lên trở thành một người nổi tiếng, giàu có, trở thành biểu tượng của những giá trị mới bằng những thủ đoạn hết sức đê tiện và dơ bẩn. Qua nhân vật Xuân tóc đỏ, vũ Trọng Phụng đã vạch trần bộ mặt giả dối, đểu giả, lừa lọc của xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến đương thời. Trong đó, “Hạnh phúc một tang gia” là chương truyện tập trung bóc trần chiếc mặt nạ giả tạo của từng con người thông qua cái chết của cụ có tổ bằng nghệ thuật trào phúng bậc thầy, hết sức độc đáo của Vũ Trọng Phụng.
Cái chết của cụ cố Tổ mở ra một hạnh phúc lớn lao đối với con cháu. Ba ngày sau, cụ cố Tổ hơn 80 tuổi chết thật. Cụ cố Hồng, vợ chồng Văn Minh, ông phán mọc sừng, cậu tú Tân, cô Tuyết…Đám con cháu vô cùng sung sướng, tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, nóng lòng chờ phát phục. Bảy giờ sáng hôm sau thì cất đám. Có hai tên cảnh sát Min Đơ, Min Toa được thuê giữ trật tự. Tuyết mặc bộ đồ “ngây thơ” đi mời trầu. Đám ma theo cả lối ta, tàu, tây. Có kiệu bát cống, có lợn quay đi lọng, có đến ba tram câu đối, vài ba tram người đi đưa. Có lốc bốc xoảng, bu dích và vòng hoa. Khi đám ma đi được bốn phố thì bỗng có sáu chiếc xe, trên có sư bùa Bà Banh, xe nào cũng che hai lọng xuất hiện. Hai vòng hoa đồ sộ, một cảu báo Gõ Mõ, một của Xuân len vào hàng đầu. Cậu tú Tân vội bấm máy. Cụ bà chạy lên, sung sướng vì ông đốc tờ Xuân đã không giận mà lại giúp đáp phúng viếng đến thế, và đám ma như kể đã là danh giá nhất tất cả. Bộn quan khách thì cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, … Lúc hạ huyệt, cậu tú Tân bắt bẻ từng người một để chụp ảnh. Ông phán mọc sừng, khóc to “hứt! hứt! hứt” bí mật dúi vào tay Xuân cái giấy bạc năm đông gấp tư…Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy…
Để bóc trần bộ mặt giả dối của đám con cháu và cả xã hội, Vũ Trọng Phụng tập trung khai thác những mâu thuẫn hết sức tài tình. Đầu tiên là ngay cái tiêu đề gây chú ý: “Hạnh phúc một tang gia”. “Tang gia” là nhà có người mới mất, là chuyện đau buồn, cớ sao lại có thể hạnh phúc được. Thế mà, ai ai cũng vui vẻ, “hạnh phúc” hết sức. Thậm chí là sung sướng tột cùng. Đó là hạnh phúc của một gia đình vô phúc, niềm vui của một lũ con cháu đại bất hiếu.
Nhan đề vừa gây chú ý cho người đọc vừa phản ánh đúng sự thật mỉa mai, hào hước tàn nhẫn. Bằng nghệ thuật trào phúng sắc bén, qua đoạn trích “Hạnh phúc của một tan gia”, Vũ Trọng Phụng đã phê phán mạnh mẽ bản chất giả dối và sự lố lăng, đồi bại của xã hội “thượng lưu” ở thành thị những năm trước Cách mạng.
Niềm vui, hạnh phúc của các thành viên trong và ngoài gia đình khi cụ cố tổ qua đời dduwwocj miêu tả một cách chân thực, sinh động và sâu cay. Trước hết là những người trong gia đình cụ cố Hồng. Cụ cố Hồng, con trai trưởng “chí hiếu” của “người chết”. Tuy mới 50 tuổi nhưng lâu nay chỉ ước mơ được gọi là cụ cố. Nay sung sướng ngây ngất vì nhờ cái chết của cha mình, nhờ có đám tang mà “được mặt bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy vừa ho vừa khạc”, diễn trò già nua giữa chốn đông người…
Cái chết của cụ Tổ là dịp để con trai thừa tự khoe giàu sang và phô trương chữ hiếu Ông Văn Minh: “cháu đích tôn chí hiếu” của người chết thì sung sướng điên người vì “cái chúc thư kia đã đến giờ thực thi chứ không còn là lý thuyết viễn vông nữa”. Đồng thời đây cũng là dịp để ông lăng xê những mốt trang phục táo bạo nhất. Cái chết của cụ Tổ là dịp để đứa cháu đích tôn thừa hưởng gia tài. Bà Văn Minh “sốt cả ruột” chờ lúc được mặt đồ xô gai tân thời của tiệm may Âu hóa cảu bà lăng xê. Cái chết của ông là dịp để cháu dâu chưng diện. Cậu tú Tân: sung sướng điên người vì được dùng cái máy ảnh lâu ngày chưa được dung đến.
Cái chết của cụ Tổ là dịp để khoe khoang và thử nghiệm đồ dung. Cô Tuyết sung sướng vì được mặt bộ y phục Ngây thơ để chứng minh với thiên hạ rằng “mình chưa đánh mất cả chữ trinh”. Ông Phán mọc sừng sung sướng vì không ngờ cái sừng trên đầu mình lại có gái trị đến thế và ông tin chắc rằng mình sẽ được trả công xứng đáng.
Không những đám con cháu trong nhà, cái chết của cộ cố Tổ còn mạng lại hạnh phúc đến những người ngoài gia đình. Bạn cụ cố Hồng được dịp khoe khoang huân chương, huy chương, nào là Bắc đấu bội tinh, Cao Miên bội tinh… và râu ria các loại “hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc nhung…”, “cảm động” khi thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực tuyết. Hai viên cảnh sát Min đơ và Min toa đang lúc thất nghiệp thì được thuê giữ trật tự cho đám tang, đã “sung sướng cực điểm”. Đám “giai thanh gái lịch” có dịp để họ bình phẩm, chê bai, ghen tuông, hẹn hò nhau. Xuân tóc đỏ sau khi ông tổ chết, uy tính danh giá cao hơn. Sư cụ Tăng Phú “sung sướng mà vênh váo” vì tin rằng sẽ có người nhận ra rằng “sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật Giáo”. Ông TYPN chờ đợi sự sáng chế của mình được ra mắt công chúng. Quả thực, ai cũng có một niềm hạnh phúc rieng, lớn nhỏ khác nhau nhưng họ đều rất hạnh phúc, rất hãnh diện và vui mừng.
Bức tranh hiện thực được đẩy lên đến đỉnh cao khi miêu tả cảnh đám tang nhố nhăng, kịch cỡm. Cách tổ chức: “theo lối Ta, Tây, Tàu, có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng cho đến lốc bốc xoảng và bú dích” . Đó là một đám tang to nhưng ô hợp, bát nháo, thiếu vắng tình người. Người đi đưa đủ mọi thành phần, từ già đến trẻ, từ cảnh sát đến sư sãi, từ thằng lưu manh giá hiệu nhà cải cách, đốc tờ đến nhà thiết kế thời trang… Hàng phố “nhốn nháo cả lên khen đám ma to” và “chú ý đặc biệt vào những kiểu quần áo tang của tiệm may Âu hóa”. Lúc hạ huyệt, cụ cố Hồng mếu máo, ho khan. Ông Phán mọc sừng khóc thật to “hứt! hứt! hứt!”…, tranh thủ dúi vào tay Xuân tóc đỏ tờ giấy bạc năm đồng bạc gấp tư (một sự thanh toán song phẳng). Sự giả dối tăng lên đến cực điểm. Đám tang diễn ra như một tấn đại hài kịch nói lên sự lố lăng, đồi bại của xã hội tư sản thượng lưu thời trước cách mạng.
Vũ trọng Phụng đã tạo dựng tình huống trào phúng cơ bản rồi mở rộng ra những tình huống khác. Từ một cái chết làm bùng nổ những âm mưu, những ước vọng, những niềm sướng vui bất tận, điều mà không ai ngờ nó có thể xảy đến sau cái chết của một con người đáng kính: cụ cố tổ.
Nhà văn tinh tế phát hiện những chi tiết đối lập gay gắt cùng tồn tại trong một con người, một sự vật, một sự việc. Có thể nói, vũ trọng phụng đã khai thác triệt để các tình tiết bằng sự quan sát và liên hệ tài tình giữa các đối tượng và sự việc. Có một thứ keo dính nào đó gắn chặt chúng lại với nhau. Thủ pháp cường điệu, nói ngược, nói mỉa cũng được sử dụng một cách linh hoạt hết sức hiệu quả nghệ thuật miêu tả biến hóa, linh hoạt và sắc sảo đến từng chi tiết khiến cho người đọc càng đi sâu càng thấy lôi cuốn.
- Kết bài:
“Hạnh phúc của một tang gia” là minh chứng thuyết phục lối văn trào phúng, châm biếm bậc thầy của Vũ Trọng Phụng. Ông khai thác triệt để cái nghịch lý trong đạo lý làm người, ông nêu lên sự đối kháng giữa cái “bi” và cái “hài”: cái đau buồn, mất mát của một gia đình có người thân qua đời với cái vui vẻ “hạnh phúc của một tang gia” để tạo nên tiếng cười châm biếm sâu cay cái tầng lớp thượng lưu mới trơ trẽn đến trâng tráo khi chạy theo lối sống văn minh rởm. Qua đó ông đã vạch trần bộ mặt xấu xa bỉ ổi của thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ, đồng thời cảnh giác mọi người trước những phong trào do bọn thực dân phong kiến đề ra. Nhất là phong trào Âu hoá.
Phân tích chương truyện “HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA” (trích tiểu thuyết SỐ ĐỎ) của Vũ Trọng Phụng.