»» Nội dung bài viết:
Vẻ đẹp phong cách thơ Xuân Diệu
Xuân Diệu tên thật là Ngô Xuân Diệu, là một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam. Ông nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Những bài được yêu thích nhất của Xuân Diệu là thơ tình làm trong khoảng 1936 – 1944, thể hiện một triết lý bi quan, tuyệt vọng về tình ái nhưng lại có một mạch ngầm thúc giục, nhiều khi hừng hực sức sống. Nhờ đó, ông được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình”, “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”
1. Một tâm hồn đặc biệt nhạy cảm trước sự vận động của thời gian.
Rõ ràng không phải đến Xuân Diệu thơ Việt Nam mới nói đến thời gian. Nhưng chỉ với Xuân Diệu thời gian mới trở thành một nỗi ám ảnh. “Thời gian trong thơ ông không chỉ là cảm xúc, là thi hứng, mà còn là nhân tố kiến trúc của tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói, Xuân Diệu luôn nhìn đời bằng con-mắt-thời-gian; “chất Xuân Diệu”, phong cách thơ ông là ở đó.
Ở Xuân Diệu, thời gian đã tạo nên một sức ép lớn “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. Ngay khi đang thanh niên thi sĩ đã vẽ ra cái già, cái chết để báo động:
Hết ngày, hết tháng, hết!em ơi
Kinh hãi không gian quặn tiếng còi
(Hết ngày hết tháng)
Trong thơ Xuân Diệu, tác giả đem đến tuổi trẻ tiếp thêm sinh khí cho sự vật, thời gian cũng đem lại sự phôi pha, héo úa. Nhà thơ đã cảm nhận thời gian trôi đi ngay trong từng khoảnh khắc của hiện tại:
Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già
(Vội vàng)
Nhạy cảm với bước đi của thời gian, kèm theo đó là sự lo âu:
Thời gian rót từng giọt buồn tê héo
Sự sống đi như hương bỏ hoa chiều
(Thanh niên)
Những câu thơ tả bước đi của thời gian thường là những câu thơ cực kì tinh vi của Xuân Diệu:
Hoa thu không nắng cũng phai màu
Trên mặt người kia in nét đau
(Hoa nở để mà tàn)
Gió lạnh rồi đây sắp nhớ thương
Sương the bảng lảng bạc cây tùng
Và ý thức sự trôi chảy của thời gian nên Xuân Diệu luôn vội vàng, cuống quýt:
Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ
(Vội vàng)
2. Xuân Diệu – một trái tim luôn hướng tới tuổi trẻ, tình yêu nơi trần thế bằng niềm yêu đời, yêu cuồng nhiệt, sôi nổi:
Bởi “khát khao giao cảm với đời” nên cái “tôi” Xuân Diệu luôn thiết tha yêu sống, cuộc sống hiểu theo nghĩa trần thế nhất. Ông kêu gọi “sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn” lòng ham sống bộc lộ hết mức:
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hay tay chín móng bám vào đời
(Hư vô)
Còn trong địa hạt của tình yêu, ông hoàng thơ tình đã mang đến cho thơ tình yêu một quan niệm đầy đủ nhất và cách thể hiện phong phú, chân thực và tinh hoa nhất. Thơ tình Xuân Diệu luôn dào dạt:
Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ
Phải nói yêu đến trăm bận ngàn lần
(Phải nói)
Đã hôn rồi hôn lại
Hôn đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt
(Biển)
Chắc hẳn những người yêu nhau nhiều thế hệ sẽ khó mà quên được câu thơ diễn tả những rung động đầu đời này:
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn, không hiểu vì sao tôi buồn
(Chiều)
Và sẽ luôn ngạc nhiên trước một nỗi khát khao thật táo bạo mà thành thực:
Những lúc môi ta kề miệng thắm
Trời ơi, ta muốn uống hồn em!
(Vô biên)
Và lòng yêu cuộc sống, ham sống, Xuân Diệu sống trẻ, sống yêu cho đến phút cuối cùng:
Xin hãy cho tôi được giã từ…
vẫy chào cõi thực để vào hư.
Trong hơi thở cuối dâng trời đất
cũng vẫn si tình đến ngất ngư…
(Giã từ)
Xuân Diệu say tình và say cảnh. Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu tràn trề nhựa sống được khám phá bằng lăng kính ái ân (Vội vàng, Thơ duyên).
3. Xuân Diệu – nhà thơ của sự nỗ lực cách tân thơ Việt và “thức nhọn giác quan”
a) Xuân Diệu, nhà thơ của sự cách tân:
– Một trong những đóng góp quan trọng nhất của Xuân Diệu là sự nỗ lực cách tân thơ Việt, sự bền bỉ học hỏi vận dụng cấu trúc câu thơ Tây phương hoàn thiện thơ trữ tình điệu nói cùng nhiều sáng tạo những cách nói mới.
– Xuân Diệu luôn có ý thức vận dụng ngôn ngữ thơ. Ông quan niệm rằng mỗi nhà thơ “phải là nhà kỹ thuật lớn của ngôn ngữ”. Ngôn ngữ thơ Xuân Diệu được cá thể hóa mạnh mẽ, mang rõ nét dấu ấn riêng, lối viết khỏe khoắn và luôn cựa quậy trong từng câu chữ, gây ấn tượng mạnh mẽ: “kẻ uống tình yêu dập cả môi”, “hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”…
– Lối dùng từ độc đáo, đặc biệt là các động từ mạnh, từ láy, biện pháp tu từ:
Hãy tuôn âu yếm, lùa mơn trớn
Sóng mắt, lời môi – nhiều thật nhiều!
(Vô biên)
Ta bấu răng vào da thịt ở đời
Ngoàm sự sống để làm êm đói khát
(Thanh niên)
hay:
Sắc hạ rung rinh bốn phía hè
Hồn ai hiu hắt lá xanh tre
(Nhớ mông lung)
hay:
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
(Đây mùa thu tới)
– Cách diễn đạt táo bạo, mạnh mẽ, lối vắt dòng, nhịp điệu thơ, hình dáng câu thơ mang đậm dấu ấn cá nhân:
Một tối bầu trời đắm sắc mây,
Cây tìm nghiêng xuống nhánh hoa gầy,
Hoa nghiêng xuống cỏ, trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu, một tối đầy
(Với bàn tay ấy)
hay:
Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi…
(Nhị hồ)
b) Thơ Xuân Diệu tràn đầy cảm xúc và thức nhọn giác quan:
– Xuân Diệu tuyên ngôn về thơ:
Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn,
Sống toàn thân và thức nhọn giác quan
(Thanh niên)
– Một thế giới nghệ thuật riêng tràn đầy cảm xúc, cảm giác, nhất là trong tình yêu:
Mây vắng, trời trong, đêm thủy tinh
Lung linh ánh sáng, bỗng rùng mình
(Nguyệt cầm)
hay:
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn
[…]
Êm êm chiều ngẩn ngơ chiều
Lòng không sao cả hiu hiu khẽ buồn
(Chiều)
– Dùng nhiều từ biểu hiện cảm giác: run, rờn, rờn rợn, nức…
Tôi run như lá, tái như đông
(Hư vô)
Những luồng run rẩy rung rinh lá
(Đây mùa thu tới)
c) Sáng tạo ngôn từ – thức nhọn mọi giác quan:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh
(Đây mùa thu tới)
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
(Vội vàng)
Xuân Diệu luôn lấy con người giữa tuổi trẻ, tình yêu làm chuẩn mực cho cái đẹp của cuộc đời. Quan điểm mĩ học của Xuân Diệu đậm chất nhân văn.
Bài văn tham khảo:
Chứng minh: “Xuân Diệu, nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới”
Xuân Diệu tha thiết, rạo rực bởi niềm say mê yêu đời, yêu cuộc sống, thèm sống đến mãnh liệt và thèm yêu đến điên cuồng với niềm khát khao được giao cảm với đời. Nhà thơ băn khoăn bời cái buồn bàng bạc, bâng khuâng, miên man không dứt bởi cuộc đời chẳng đáp ứng được cách sống vội vàng của con người nhà thơ. Với ba tính từ ấy, Hoài Thanh đã xây dựng cho Xuân Diệu một bậc thang cao nhất, đưa chàng thi sĩ “say men sống” lên đứng cao hơn mọi người – “Xuân Diệu, nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới” (Hoài Thanh).
Bởi nguyên nhân Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất, là đại biểu đầy đủ nhất cho phong trào Thơ Mới, bởi cái cá tính rất riêng khó có thể trùng lặp với ai, một phong cách thơ rất Xuân Diệu, mới cả về nội dung và hình thức. “Với nững vần thơ ít lời mà nhiều ý, súc tích nhưng động lại bao nhiêu tinh hoa, Xuân Diệu là một tay thợ biết làm cho ta ngạc nhiên vì nghệ thuật dẻo day và cần mẫn” ( Thế Lữ ). Xuân Diệu tuy xuất hiện trên thi đàn thơ Mới muộn hơn so với Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông… nhưng thơ Xuân Diệu trong thời kì này đã tạo được một tiếng vang lớn có sức lay động với nhận thức và tình cảm của người đọc cũng như người sáng tác lúc bấy giờ…
“Nhà thi sĩ ấy là một chàng trai trẻ hiền hậu và say mê, tóc như mây vướng trên đài trán thơ ngây, mắt như bao luyến mọi người và miệng cười mở rộng như một tấm lòng sẵn sàng ân ái, chàng đi trên dường thơ, hái những bông hoa gặp dưới bước chân mình, những hương sắc nẩy ra bởi ánh sáng của lòng chàng…” (Thế Lữ). Vâng! Đúng thế. Một nhà thơ nhận xét một nhà thơ, không phải chuyện “mèo khen mèo dài đuôi”, mà mèo muốn nói cái đuôi kia sẽ dài hơn kia. “Như một tấm lòng sẵn sàng ân ái”, Xuân Diệu dang tay chào đón nhựa sống rạt rào của cuộc đời. Xuân Diệu là một ngừoi của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian, ông lại không trách mà còn quyến luyến cõi đời, và lời nguyện ước của ông có bao nhiêu là sức mạnh:
Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây quấn quýt cả mình xuân
Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất.
Một ước muốn quá ngông cuồng, lãng mạn và dường như không thể thực hiện được! Nhưng với ai, chứ Xuân Diệu có thể thức hiện được, bởi nhà thơ:
Sống toàn tâm, toàn bích, sống toàn hồn
Bằng say mê và thức nhọn giác quan.
Nhà thơ dùng nhiều từ khiến lòng ta bỡ ngỡ, nhà thơ muốn ôm, cánh tay muốn làm rắn, muốn hóa thân thành “dây đa quấn quýt cả mình xuân” của cuộc sống. Dẫu biết mùa xuân là bất tận, Xuân Diệu biết quy luật của thời gian, biết rằng xuân qua đi rồi xuân sẽ trở lại, nhưng “tuổi trẻ chẳng bao giờ thắm lại” nên nhà thơ bâng khuâng tiếc cả dất trời, nhà thơ muốn ôm mãi mùa xuân, muốn cho mình trẻ mãi. Nhà thơ :
Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất.
Nếu Thế Lữ còn nuôi giấc mộng lên tiên thì Xuân Diệu “đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”(Hoài Thanh). Chàng thi sĩ trẻ yêu đời nhận ra rằng, không có gì quý hơn cuộc sống thực tại này, còn gì bằng ở chốn dương trần, vườn trần xinh tươi, đất nở muôn ngàn hoa tươi thắm, thì tìm làm chi ở tận chốn cung tiên, mơ mộng “muốn làm thằng cuội” (Tản Đà) làm chi mà thủ thỉ bên chị Hằng để trốn tránh chốn trần thế?. Nơi mặt đất này, màu nắng hương say đều làm cho người ta ngây ngất, và Xuân Diệu đã:
…muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
…muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
thì cũng là một ý muốn ngông cuồng, lãng mạn…
Và ở đây, cái đẹp của vườn trần mà chỉ một mình Xuân Diệu mới phát hiện ra được:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Cùa yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi…
“Này đây”, sự lặp đi lặp lại một đại từ phím chỉ, để liệt kê, Xuân Diệu đã đưa ra cho người ta thấy, với một tâm hồn say sưa yêu sống như thế không thể hững hờ với thiên nhiên tươi đẹp, thì cớ gì mà con người còn đi tìm ở tận phương nào …
Cuộc sống đẹp và huyền dịu như thế nên nhà thơ không những đón nhận nó mà còn muốn hòa tan nó theo hơi thở của mình:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm của tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước và cây và cỏ rạng
Cho chếch choáng mùi thơm cho đã đấy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Xuân Diệu thật thiết tha với cuộc sống. Tuổi xuân chàng thi sĩ chỉ biết làm sao cho thỏa dạ yêu đời. Cuộc sống vẫn còn đó chứ đâu? Tại sao nhà thơ lại cứ mãi suy nghĩ viễn vong rồi lại hành động ngây ngô. Không! Nhà thơ của chúng ta không ngây ngô, nhà thơ chỉ thôi thúc mọi người hãy sống sao cho xứng đáng với tuổi trẻ. Vì thế, nhà thơ “muốn ôm”, “ôm sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, nhà thơ “muốn riết mây đưa và gió lượn”, “muốn say cánh bướm của tình yêu”, “muốn thâu trong một cái hôn nhiều”…một loạt động từ “muốn” như khẳng định hành động, làm cho chếch choáng, cho đã đầy, cho no nê thanh sắc thời tươi và cuối cùng là không thể dồn nén cảm xúc: “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Nhà thơ muốn cắn, muốn bấu vào da thịt của mình xuân, để có thể tận hưởng tất cả dư vị ngọt ngào của cuộc sống xuân tươi đang mơn mởn…
Lòng yêu cuộc sống thiết tha ấy, đặc biệt là khát vọng sống có ích cho đời. Có thể nói đó là một trong những yếu tố tạo nên sức sống, sức hấp dẫn mạnh mẽ của thơ Xuân Diệu, góp phần tạo nên cho nhà thơ có một chỗ đứng xứng đáng trên thi đàn thơ. Một lúc nào đó, tâm hồn thiết tha yêu sống ấy lại rạo rực một tình yêu chân thành. Một buổi chiều thơ ấy, dưới cặp mắt choáng hơi men sống, cảnh vật cũng trở nên kì diệu:
Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
Đó là tình yêu của buổi đầu e ấp, thật trong sáng và đáng yêu là sao! Rồi tình yêu say đắm, nhà thơ muốn tận hưởng tình yêu sôi nổi, đam mê cuồng nhiệt như muốn trở thành điên dại:
Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ
Phải nói yêu trăm bận mấy nghìn lần
Phải mặn nồng cho mãi mãi đêm xuân
Đem ong bướm thả trong vườn tình ái
Em phải nói phải nói và phải nói
Bằng lòi riêng nơi cuối mắt đầu mài
Bằng nét vui, bằng vẻ thẹn, chiều say
Bằng đầu ngã, bằng miệng cười, tay riết
Bằng im lặng, bằng chỉ anh mới biết!…
Không phải là chuyện có yêu hay không! Cái mà Xuân Diệu muốn nói là yêu như thế nào? Nhà thơ đòi hỏi một tin hỏi một tình yêu mảnh liệt, say đắm, một tình yêu có nồng độ cao – một tình yêu mặn nồng, vô biên và tuyệt bích. Và một khi tình yêu dang dở, chỉ có Xuân Diệu nhận rõ và tuyệt vọng hơn ai:
Yêu là chết trong lòng một ít
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu
Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu
…
Họ lạc lối giữa u sầu mù mịt
Những người si theo dõi dấu chân yêu
Và cảnh đời là sa mạc cô liêu
Và ái tình là sợi dây quấn quýt
Yêu là chết trong lòng một ít.
Chỉ có những người si mới theo dõi dấu chân yêu, khi tuyệt vọng rồi mới rõ ràng thấy mình đã chết… Nhưng Xuân Diệu chẳng bao giờ chán nản, “khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết …không cần phải như là con hổ ngự trị trên rừng xanh, không cần phài là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sống, sự bồng bột của Xuân Diệu có lẽ đã phát biểu ra một cách đầy đủ hơn cả trong những rung động tinh vi, sau khi đọc lại nhà thơ có tâm hồn phúc tạp này, sau khi đã tìm hiểu Xuân Diệu hoài, tôi thấy đây mới chính thật là Xuân Diệu”(Hoài Thanh).
Một nhà thơ có tâm hồn tha thiết với cuộc sống như thế, một khi cũng cô đơn trong cuộc sống đời thường. và cứ mỗi độ thu về, tâm hồn nhà thơ lại thêm một nỗi cô đơn, đấy là nỗi “băn khoăn” của thi sĩ. Và cái băn khoăn ấy là biểu hiện rõ nét và chân thành nhất của lòng yêu đời rạo rực. Đó là hai mặt của một hồn thơ Xuân Diệu, và Xuân Diệu chẳng phải đã bộc lộ tâm sự của mình trong “thơ duyên” đó sao?
Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Đứng giữa cuộc đời đang đổi thay bởi cái cảnh nước mất nhà tan, là sao tâm hồn ấy có thể tha thiết rạo rực mãi? Và tâm trạng của Xuân Diệu cũng có khác gì tâm trạng của những nhà thơ bấy giờ hay nói đúng hơn dó là tâm trạng của một lớp thanh niên trí thức buổi giao thời mới cũ đổi thay! Họ chỉ biết gửi tâm sự thầm kín của mình vào thiên nhiên, dất trời, vũ trụ bao la. Chẳng thế mà Hoài Thanh trong “thi nhân Việt Nam đã nhận xét: “ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên; ta dắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say dắm vẫn bơ vơ”.
Vì thế nhà thơ Xuân Diệu vẫn còn “bơ vơ”, lắng nghe bước đi của thời giantừ hạ sang thu, lòng nhà thơ dâng lên một nỗi buồn trê tái khó tả – nỗi buồn vỡ tung ra thành tiếng khóc và đọng lại thành hàng ngàn giọt lệ:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Có lẽ không phài là rặng liễu của thiên nhiên buồn mà dường như đó là “rặng liễu tâm hồn” của tác giả. Bởi tác giả cũng có nỗi niềm “buồn ơi xa vắng mênh mông là buồn”. Xuân Diệu đã dẫn ta vào thế giới của buồn chán, cô đơn và tuyệt vọng:
Tôi là con nai giữa chiều giăng lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối.
Nhà thơ đã thực sự cô đơn, bơ vơ như con nai bị “chiều giăng lưới”, biết đi đâu về đâu? Đứng sầu tư cho đến khi bóng tối chìm nghập cả không gian. Khi thời gian trôi qua, Xuân Diệu mói ngỡ ngàn, ngơ ngẩn nhìn hạ chuyển mùa sang đông mà lòng nghe tê tái:
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Nhũng luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Có ai quan sát được như nhà thơ? Chỉ có tâm hồn rạt rào yêu sống, quan tâm đến sự sống mới có thể vượt lên được hoàn cảnh thê lương để tâm hồn luôn sống đẹp mà mới viết lên được những cậu thơ đầy hình ảnh như thế, và mới có cách nói rất mới ấy: “hơn một” – cách dùng từ rất Tây, rất mới, không chỉ một loài jao, mà khi thu đến rồi đi, nhiều loài hoa đã rời cành. Sự quan sát càng tinh tế hơn ở câu sau : “Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh”, màu đỏ đã lấn át dần màu xanh, đấy là giai đoạn cuối thu, nên mới có hơi lạnh tràn về:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Chỉ những từ láy âm, nhà thơ đã gợi trong ta cái dáng yếu ớt, chao đảo, cái rùng mình thắm lạnh và cả nỗi sợ hải của những chiếc lá sắp phải lìa cành trước những cơn gió cuối thu. “Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”, bằng hình ảnh so sánh, nhân hóa đã goiợ lên cái dáng lẻ loi, cô đơn giữa đất trời, từng nhánh khô gầy khẳng khiu như chạm khắc lên bầu trời buồn cô đơn dưới con mắt buồn của thi nhân. Và nhà thơ:
Đã nghe rét mướt luồng trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò…
Cảnh thu đã tàn rồi, mùa thu đã dần nhường bước9 cho tiết trời mùa đông len qua, càng buồn càng cô đơn hơn nữa! Mùa đông đã đến trong từng ngọn gió rét mướt làm tê lạnh lòng người!…
Xuân diễu say đắm đấy, thiết tha yêu sống đấy nhưng lại rất băn khoăn. Nhà thơ đã náo nức đón chào mùa thu: “Đây mùa thu tới – mùa thu tới”. Nhưng rồi cảm giác vui mừng ấy cũng tan biến đi, khi thời gian làm bằng bước đếm vội vàng làm lòng người tê tái khi còn lại đây chỉ là mùa đông băng giá thê lương, với những cuộc chia li, với con người như biến nói trước cảnh vật:
Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li
Ít nhiều thiếu nữ buốn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
Cả một không gian bao la giờ này đã thấm nỗi buồn của lòng người và hiện lên trên gương mặt của những cô thiếu nữ. Đó là tâm trạng của những lớp người chưa xác định được hướng đi và cũng không giải thích nổi. Nó chỉ phảng phất nỗi lòng trên cảnh vật , hiện hình lên gương mặt những cô thiếu nữ và đọng lại trên sắc thu tê tái, thấm sâu nỗi niểm băn khoăn của Xuân Diệu. và trong nỗi niềm băn khoăn đó, nhà thơ đã sử dụng được tài tình sự lựa chọn từ ngữ rất tinh vi đã bộc lộ được nỗi đau buồn của tâm trạng đang bơ vơ giữa cuộc đời. Và trong niềm băn khoăn ấy, lời thơ ấy vẫn sống mãi, vẫn thiết tha và rạo rực, có buồn chăng cũng chỉ vì nhà thơ của chúng ta mang tâm trạng cô đơn và bất lực trước cuộc đời.
Xuân diệu là thế, lời thơ có những lúc rất Tây, nhưng vẫn mang được cái cốt cách rất đáng trân trọng, “cái dáng yêu kiều, cái cốt cách phong nhã của điệu thơ, một cái gì rất Việt Nam, đã quyến rũ lòng ta” (Hoài Thanh). Ta đến với Xuân Diệu, ngoài những vần thơ làm người ta rung động còn có cái gì đó ở Xuân Diệu mà ta rất đổi nâng niu. Đó là tâm hồn thơ kết tinh của hai nền văn học Đông và Tây đã đưa Xuân Diệu bước lên đỉnh cao nhất – “nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới” (Hoài Thanh), bởi Xuân Diệu vẫn còn giữ mình với phong cách của thơ ca dân tộc, đã làm lòng người Việt Nam yêu mến.
Đến với thơ Xuân Diệu ta mới cảm nhận được hết tâm hồn của cháng thi sĩ say men đời cuồng nhiệt này, giúp ta hiểu thêm về cuộc đời này với muôn vẻ đẹp thiên nhiên mà hầu như ta không để ý tới. Với một chiếc lá rơi, một luồng gió lạnh, một chút nắng vàng trải rộng, một cử chỉ bâng khuâng của con người,…chỉ có Xuân Diệu mới để lòng quan tâm. Đó là phong cách của nhà thơ, nhà thơ đã từng sống, sống hết mình cho cuộc đời và cho thơ văn của mình:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Để cho lòng ràng buộc với muôn dây
Và san sẻ bởi trăm tình yêu mến.
Bởi thế nên hồn thơ ấy còn rộng mở mãi mặc dầu trong lòng cũng còn mang nặng bao nỗi ưu tư. Trong niềm ưu tư đó, nhà thơ vẫn sống thiết tha với đời bằng tất cả tâm hồn của mình:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
“Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống rạt rào chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuốn quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình, khi vui cũng như khi buồn, người đều nòng nàn tha thiết” (Hoài Thanh). Hơn nữa, Xuân Diệu “là một tay thợ biết làm cho ta ngạc nhiên vì nghệ thuật dẻo dai và cần mẫn…” (Thế Lữ).
Những nhận định về nghệ thuật thơ Xuân Diệu.
1. “Xuân Diệu là một nhà thơ lớn, đặc sắc, độc đáo của nền thơ hiện đại Việt Nam… cho tới nay và những năm tháng trước mắt liệu có ai vượt được Xuân Diệu trong lĩnh vực thơ tình? Và không ai có thể thay thế được Xuân Diệu” (Tố Hữu)
2.Nhà thơ nữ lừng danh, bà Bra-gri-a-ma ở chân núi Vi-to-sa (Bungari) khi tuyển thơ tình trên thế giới, bà đã khoe với các bạn Việt Nam: “Tôi mở đầu tuyển tập hàng trăm tác giả này bằng nhà thơ Nga Puskin và kết thúc bằng nhà thơ Xuân Diệu – Việt Nam, Xuân Diệu là nhà thơ tình lớn của phương Đông vậy!”
3.”Xuân Diệu là cả một viện nghiên cứu văn học trong anh” (Chế Lan Viên)
4. “Nhà thơ Xuân Diệu mất đi, thấy có mang theo một mảng đời văn tôi” (Nguyễn Tuân)
5.”Đau lòng thay! Mất một nhà thơ lớn. Mất một người bạn và về thơ anh là bậc đàn anh của tôi” (Hoàng Trung Thông)
6.“Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” (Thế Lữ – Lời tựa cho tập “Thơ thơ”)
7. Hoài Thanh là người đầu tiên cho rằng “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới”.
8.” Nếu bây giờ chỉ cần gọi tên một nhà thơ trong thơ mới thôi, thì gần như tất cả sẽ gọi Xuân Diệu”
9. Nguyễn Đăng Mạnh: “Xuân Diệu không quan niệm tình yêu chỉ là sự giao cảm xác thịt mà còn là sự giao cảm của những linh hồn mà đấy mới là cái khát vọng cao nhất, cái đích cao nhất trong tình yêu”
- Cảm nhận bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu