Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, hãy làm tỏ những suy tư, chiêm nghiệm đầy tính triết lí của Nguyễn Minh Châu về cuộc đời và nghệ thuật.
- Mở bài:
Từ những năm 80 của thế kỉ XX,từ cảm hứng sử thi lãng mạn của những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh, cảm hứng sáng tác của nhà văn dần dần chuyển sang tính chất triết luận về những giá trị nhân bản đời thường, khám phá ý nghĩa bản chất con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn xông xáo nhất đổi mới nền văn học của giai đoạn này. Chiếc thuyền ngoài xa ra đời trong mạch cảm xúc này của tác giả.
- Thân bài:
Nếu như nhân vật Phùng được xây dựng theo kiểu nhân vật tư tưởng, thì nhân vật người đàn bà hàng chài lại được Nguyễn Minh Châu xây dựng theo kiểu nhân vật tính cách, nhân vật số phận, xuất phát từ những quan điểm nghệ thuật mới về con người của nhà văn, của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.
Nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm với cái tên gọi chung chung: “người đàn bà hàng chài”. Lúc khác nhà văn lại gọi là “mụ”, là “chị ta”. Không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến mức không thể đặt cho chị một cái tên riêng mà đây là dụng ý của nhà văn: người đàn bà này cũng như bao người đàn bà khác ở vùng biển này, cũng như bao người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay luôn lam lũ, nhọc nhằn, luôn hết lòng yêu thương chồng con, luôn giàu đức hy sinh và giàu lòng vị tha. Chị là một người đàn bà vô danh nhưng sự xuất hiện của chị giữa cuộc đời không hề vô nghĩa. Qua hình tượng người đàn bà vô danh ấy, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm nhiều triết lí sâu sắc về cuộc đời.
Trước hết, người đàn bà hàng chài là một người phụ nữ có ngoại hình thô nhám, xấu xí và số phận bất hạnh, đau khổ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên chân dung một con người độc đáo và đầy ấn tượng: từ nhỏ chị đã là “một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một trận lên đậu mùa. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy”.
Dù xuất thân khá giả nhưng thua thiệt về nhan sắc nên không ai để ý. Nhưng vì lỡ có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá mà chị lấy anh ta, theo anh ta làm nghề chài lưới, nay đây mai đó. Cuộc sống gia đình bắt đầu rơi vào bi kịch khi họ sinh nhiều con, cuộc sống trên thuyền chật chội, bấp bênh, họ rơi vào cảnh cùng túng, quẫn bách. Anh chồng vốn hiền lành trở nên cục cằn, dữ dằn, thường lôi chị ra đánh. Cuộc sống ấy càng khiến người đàn bà này trở nên đáng thương, thân hình của chị càng trở nên thô nhám: “người đàn bà trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên qua sự nhọc nhằn, lam lũ.
Người đàn bà ấy còn gợi ở người đọc sự xót xa, thương cảm với “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”. Chị chưa già nhưng ngoại hình thì quá thô nhám, xấu xí, thô kệch. Sự thua thiệt về nhan sắc ấy vừa toát lên sự nhọc nhằn vừa cho thấy chị đã phải gồng mình lên để chống chọi để mưu sinh giữa cuộc đời. Người đàn bà ấy còn có vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi bị người chồng đánh đập tàn nhẫn và mắng nhiếc. Người chồng vũ phu thường dùng chiếc thắt lưng để vụt tới tấp vào người chị. “Lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ”.
Tuy bị chồng đánh đập một cách tàn nhẫn nhưng chị “ không kêu van, không chống trả cũng không chạy trốn”. Không phải mình chị bị đánh, thằng con trai của chị vì bảo vệ chị mà lại bị cha đánh. Chứng kiến cảnh ấy chị đau đớn, xấu hổ và nhục nhã, chị đã khóc và ôm lấy con. Ngay sau đó chị lại buông con chạy theo chồng như một minh chứng cho sự lệ thuộc và cam chịu. Sự việc ấy còn diễn ra thường xuyên theo quy luật: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, hễ lúc nào thấy khổ là chồng chị lại sách chị ra đánh, lão trút cơn giận như lửa cháy lên chị, mà chị vẫn tình nguyện sống với người chồng vũ phu ấy càng cho thấy sức chịu đựng bền bỉ, kiên cường của chị.
Nhà văn đã khiến người đọc phải xót xa thương cảm cho một thân phận con người như chị, một nạn nhân đau khổ của cái đói, cái nghèo, cái lạc hậu và nhất là nạn nhân của bạo lực gia đình.
Nếu chỉ có thế thì nhân vật người đàn bà chưa thể khiến người đọc cảm phục, trân trọng. Nhà văn đã đi sâu khám phá và ngợi ca vẻ đẹp ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn người đàn bà ấy bằng tất cả sự tin yêu của mình đối với con người, tin ở phẩm chất tốt đẹp của con người có thể bị che lấp nhưng không bao giờ mất đi. Vẻ đẹp khuất lấp mà nhà văn tìm kiếm chính là sự sắc sảo, từng trải, thấu hiểu lẽ đời, nhất là sự yêu thương và hy sinh cùng lòng vị tha ở một người đàn bà đầy nghị lực, biết vượt lên số phận kia.
Đằng sau vẻ ngoài xấu xí kia là một nội tâm sâu sắc, một tâm hồn nhân hậu. Điều này đã được lộ rõ qua hành động, lời nói, thái độ cùng câu chuyện cuộc đời của chị khi chị đến gặp chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng ở tòa án huyện. Chị đến tòa án huyện theo lời mời của chánh án Đẩu để giải quyết việc gia đình. Lúc đầu, chị vẫn giữ cái dáng vẻ lam lũ, tội nghiệp vốn có với dáng đi mệt mỏi, chậm chạp, vẫn chiếc áo bạc phếch có miếng vá trên vai, chị sợ sệt, lúng túng, xưng hô lễ phép: xưng “con” với “ quý tòa”, vừa vái lạy vừa van xin: “Con lạy quý tòa…Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” khi nghe lời khuyên của chánh án, muốn chị li hôn vì “Chị không sống nổi với một người chồng vũ phu ấy đâu!”.
Nhưng ngay sau đó để bảo vệ cho cái gia đình nhỏ của mình, chị đã thay đổi cách xưng hô: xưng “chị” với “các chú”, bằng thái độ chủ động, mạnh dạn khác hẳn lúc mới đến tòa án. Chị ngẩng đầu nhìn thẳng vào người đối diện, mất dần vẻ khúm núm, sợ sệt trước đó, chị tỏ ra tự tin, có lúc còn “thông cảm” với Phùng và Đẩu. Lời nói của chị lúc này tuy là của một người quê mùa thất học nhưng lại vô cùng sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời, khiến Phùng và Đẩu ngạc nhiên: “Chị cảm ơn các chú! Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”và những lời tiếp sau đó: “Là bởi vì các chú không phải là người đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên thuyền không có đàn ông…. đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa.”
Đây là những trải lòng chân thành, là sự giãi bày không giấu diếm cảnh ngộ bất hạnh của chị với những người chị tin tưởng. Lời nói ấy chân thành mà chứa đựng bao ẩn ý của một người thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Chị phân tích cho Phùng và Đẩu hiểu những lí do để không muốn bỏ chồng: thứ nhất chị làm nghề chài lưới, trên một chiếc thuyền của gia đình thì không thể thiếu vai trò của người đàn ông, nhất là khi biển động. Thứ hai, với gánh nặng của cuộc sống mưu sinh, một mình chị không thể nuôi nấng chín mười người con. Thứ ba, cũng có lúc trên thuyền vợ chồng con cái quây quần, hạnh phúc, dù ít ỏi những nó cũng phần nào xoa dịu nỗi đau về thể xác sau mỗi lần bị chồng đánh. Những lí lẽ sắc sảo ấy của chị đã khiến Phùng và Đẩu nhận ra mình đã sai, đã phiến diện khi muốn giải quyết câu chuyện gia đình của người khác mà chỉ dựa vào lí thuyết sách vở hay công lí và lòng tốt. Và muốn hiểu con người và cuộc sống hơn cần phải thâm nhập, phải sống thực sự, đừng đứng ngoài cuộc mà phán xét.
Kinh nghiệm sống ấy cho thấy chị tuy quê mùa thất học mà những nhận định, đánh giá về vấn đề của cuộc sống của chị lại vô cùng thực tế, không hề bao biện mà thẳng thắn đối diện để nhận thức. Người đọc vì thế thấy nể phục chị hơn bởi sự am hiểu lẽ đời và nhất là sự cứng cỏi, mạnh mẽ phi thường, không đầu hàng số phận, vượt lên trên số phận để sống, để giữ gìn tổ ấm bằng một khát vọng sống mãnh liệt.
Không chỉ sống mạnh mẽ, người đàn bà ấy còn là người hết lòng yêu thương chồng con, luôn hy sinh vì gia đình. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi ta gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình. Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Cách người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa để đừng bắt mình li dị chồng càng toát sự hi sinh, vị tha trong chị. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao? Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục.
Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Chị sẵn sàng chịu những trận đòn roi của chồng để đàn con được ăn no, ngủ yên. Lo thằng Phác sẽ có những hành động sai trái, chị gửi nó lên ở với ông ngoại, để nó không nhìn thấy bố đánh mẹ, để nó khỏi đau lòng và không có những hành động trái với luân thường đạo lí. Chị yêu con, thương con, mong con khôn lớn nhưng không thể bảo vệ được tâm hồn của các con. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện mà không đòi hỏi bất cứ điều gì. Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” thì người đọc phải ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ.
Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Chị biết mình sống là vì ai, chị đã tâm sự: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như trên đất được!” Tình mẫu tử trong chị thật thiêng liêng cao cả! Cuộc đời của chị có quá nhiều đau thương và nước mắt nên chị càng trân trọng những chắt chiu hạnh phúc bình dị đời thường. Vẻ đẹp nhất ở chị đúng là đức hi sinh, là tình yêu thương chồng con sâu sắc và chị luôn sống với một tâm niệm thiêng liêng ấy.
Nói tóm lại, nhà văn đã dụng công xây dựng nhân vật người đàn bà để thể hiện quan điểm mới của mình về con người. Người đàn bà hàng chài là hình ảnh đại diện cho những con người vô danh, nghèo khổ, lam lũ nhưng lại có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý khiến họ trở nên không hề nhỏ bé mà là hiện thân của những gì đẹp đẽ nhất. Người đàn bà quê mùa thất học nhưng không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch. Thực ra chị là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Chị có một cuộc sống nhọc nhằn lam lũ nhưng biết chắt chiu từng hạnh phúc bình dị đời thường. Chị luôn sống với một tâm niệm thiêng liêng là hy sinh vì chồng con. Chị có ngoại hình thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ, thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển nào.
Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó.
“Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm có tình huống truyện rất độc đáo, hấp dẫn. Nó được thể hiện qua những phát hiện chân thực của nhân vật Phùng. Tình huống truyện đầy bất ngờ và chứa nhiều câu chuyện mà qua đó tạo bước ngoặt trong nhận thức của nhân vật về nghệ thuật và cuộc sống. Chính tình huống đã làm cho truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” vừa chân thực, vừa mang ý nghĩa phát hiện sâu sắc về đời sống.
Về ngôn ngữ, dường như tác giả rất dụng công trong việc tỉ mỉ điều khiển đội quân ngôn ngữ của mình. Truyện ngắn cho ta thấy được sự tài hoa của ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong việc tả cảnh, tả người, dựng đối thoại hay kể chuyện. Bên cạnh đó là thứ ngôn ngữ đậm màu sắc triết lí, ngôn ngữ kể chuyện theo lối đổi ngôi khiến câu chuyện vừa khách quan vừa thuyết phục.
Về cách xây dựng nhân vật, nhà văn đã tạo ra những nhân vật vừa quen vừa lạ, có những vẻ đẹp khuất lấp, chứa đựng nhiều quan niệm về con người của Nguyễn Minh Châu. Về giọng văn thì thay đổi linh hoạt: lúc say sưa tả cảnh, lúc hài hước tự trào, lúc lại suy tư day dứt chiêm nghiệm,…
- Kết bài:
Nói tóm lại, “Chiếc thuyền ngoài xa” là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu. Cốt truyện giản dị mà chứa đựng những tình huống mang tính khám phá về cuộc sống. Truyện ngợi ca con người và giãi bày những trăn trở của nhà văn về cuộc sống đa chiều, phức tạp với bao nhọc nhằn đè nặng lên số phận con người. Tác phẩm đặt ra vấn đề về cách nhìn nhận cuộc sống và con người, nhất là mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.
Tham khảo:
Phân tích nhân vật để làm rõ giá trị nhân đạo của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa.
Hướng dẫn làm bài:
1. Số phận bất hạnh:
– Không có tên riêng: Tác giả không đặt cho chị một tên riêng nào mà gọi chị một cách phiếm định là “người đàn bà”. Nhà văn cố tình mờ hoá tên tuổi của chị để tô đậm một số phận.
– Ngoại hình xấu xí: “thuở nhỏ là đứa con gái xấu lại rỗ mặt”.
– Nỗi bất hạnh của chị
+ Vì xấu xí nên không ai thèm lấy chị lỡ lầm và có mang với một anh hàng chài.
+ Cuộc sống vất vả, nghèo khổ, lại đông con, những khi biển động, hàng tháng “cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối ”.
+ Sống cam chịu, nhẫn nhục: thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng chị không hề chống trả hay trốn chạy.
+ Quen sống với môi trường sông nước nên khi đến toà án chị cảm thấy lạ lẫm và “sợ sệt”, “lúng túng”, “tìm đến một góc tường để ngồi”, “cố thu người lại”, “cúi mặt xuống”…
⇒ Tác giả khắc hoạ thật ấn tượng về người đàn bà một đời nhọc nhằn, lam lũ, nhiều cay đắng.
2. Vẻ đẹp tâm hồn của chị:
– Yêu thương con tha thiết:
+ Ban đầu chị bị chồng đánh ở dưới thuyền, sau đó, chị xin với lão đưa chị lên bờ mà đánh; trước khi bị chồng đánh, chị ngước mắt về phía chỗ chiếc thuyền đậu… chị không sợ đòn mà chỉ sợ các con thấy cảnh tượng đau xót sẽ làm thương tổn những trái tim ngây thơ.
+ Khi thằng Phác bênh chị đánh trả lại người cha, hình như lúc ấy chị mới cảm thấy đau đớn, gọi “Phác, con ơi” rồi “chắp tay vái lấy vái để” nó, rồi “ôm chầm lấy” nó “Thằng nhỏ … như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ xuyên qua tâm hồn người đàn bà”. Đằng sau cái vái lạy đó là chị muốn đứa con đừng làm những điều đáng tiếc với cha mình, là cái lẽ đời mà chị muốn cho con hiểu.
+ Không muốn ly hôn, chấp nhận bị đánh đập, hành hạ để nuôi con khôn lớn: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn (…). Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình (…) được!”
– Hiểu nguyên nhân làm nên sự tha hoá nhân cách của người chồng:
+ Khi Đẩu khuyên chị ly hôn, “chị chắp tay vái lia lịa” và nói “Con lạy quý toà… quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Bởi chị hiểu chính nghèo khổ, con cái nheo nhóc, không gian sống tù đọng là nguyên nhân biến một anh cục tính hiền lành thành gã đàn ông thô bạo, dã man.
+ Chị thấm thía, thấu hiểu nguyên căn những trận đòn vũ phu của người chồng: “ giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn…” , “… cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Người đàn bà thơ vụng, xấu xí khốn khổ ấy luôn tìm cách lí giải hành vi của chồng mình để giữ gìn, để che chắn cái gia đình khốn cùng của mình trước sự chỉ trích dù rất đúng và chân thành của những người khác.
+ Trong đau khổ, chị vẫn chắt lọc niềm vui để sống: Chị nói về những lần vui vẻ hiếm hoi của gia đình: “ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ” hay “vui nhất là ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Nói về những điều đó “mặt chị ửng sáng lên như một nụ cười”…
⇒ Hạnh phúc của người đàn bà khốn khổ này cũng chính là niềm hạnh phúc thật lạ lùng và khó hiểu với những người như Phùng, như Đẩu. Trong vất vả, nhọc nhằn, đau đớn, người đàn bà vẫn tìm thấy, vẫn chắt chiu được những niềm vui ít ỏi, niềm vui lấp lánh trong âm thầm, nhẫn nhịn, chịu đựng, hi sinh . Đó là bản chất tốt đẹp của những bà mẹ.
3. Giá trị nhân đạo của tác phẩm:
Qua hình ảnh người đàn bà, tác giả thể hiện sự quan tâm đến những con người bất hạnh và khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của họ: Dù khó khăn gian khổ nhưng họ vẫn khát khao hạnh phúc bình dị, khát khao cuộc sống no đủ, bình yên. Tác giả phê phán nạn bạo hành trong gia đình – một mảng tối của xã hội đương đại.
- Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
- Tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu
- Qua nhân vật Phùng, hãy làm tỏ những suy tư, chiêm nghiệm đầy tính triết lí của Nguyễn Minh Châu về cuộc đời và nghệ thuật.
- Qua hai phát hiện, anh/chị hãy nêu cảm nhận về nhân vật Phùng trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu