qua-nhan-vat-ong-hai-lam-ro-nhung-chuyen-bien-moi-trong-tinh-cam-cua-nguoi-nong-dan-viet-nam-thoi-khang-chien-chong-phap-13150-2

Qua hình ảnh nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyến biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp

Qua hình ảnh nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyến biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp?


  • Mở bài:

Kim Lân là một trong số ít những nhà văn viết ít mà thành công lớn. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Truyện ngắn làng có lẽ là tác phẩm nổi bậc nhất của Kim Lân và của cả nền văn học Việt Nam trước cách mạng 1945.

  • Thân bài:

Năm 1948, truyện ngắn Làng ra đời thật đúng thời điểm. Lúc này, người nông dân đã dần tin tưởng và ủng hộ cách mạng. Sự diễn biến này diễn ra từ từ nhưng rất chắc chắn. Kim Lân đã nhìn thấy điều đó. Nó rất cần thiết cho một cuộc vận động toàn diện trên mặt trận yêu nước, mặt trận kháng chiến.

Ông Hai là một nông dân suốt cuộc đời sống gắn bó và rất tự hào về làng Chợ Dầu. Được lệnh tản cư, ông Hai rất đau lòng nhưng cũng phải rời đi. Ở nơi tản cư, ông nhớ làng tha thiết, đi đâu ông cũng khoe cái làng của mình. Đùng một cái, ông nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc khiến ông đâu khổ vô cùng. Suốt thời gian ấy ông không dám gặp ai. Khi tin làng Chợ Dầu theo giặc, ông Hai mừng rỡ vô cùng, ông lại tiếp tục tự hào và khoe cái làng của mình.

Cốt truyện làm bừng sáng phẩm chất tâm hồn nhân vật. Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai được thử thách một cách khốc liệt, cuối cùng được khẳng định mạnh mẽ và thiêng liệng, cao quý. Từ tình yêu làng, yêu nước của ông Hai, nhà văn đã thể hiện sâu sắc những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.

Gắn bó máu thịt với từng con đường, từng nếp nhà, thửa ruộng, từng ngọn cỏ, cành cây và biết bao người ruột thịt, xóm giềng, tổ tiên và họ hàng gần xa. Quê hương trở thành một phần máu thịt của ông. Và khi chết đi, ông cũng muốn được nằm trên mảnh đất yêu thương này. Thế nên, khi được lệnh phải đi tản cư, ông Hai lưỡng lự, lúc đầu ông quyết không đi. Cũng thật dễ hiểu cho ông Hai, bằng tuổi này rồi, sống được bao lâu nữa, giờ ra đi biết có trở về được không?

Ẩn sau cái tình yêu làng là thói quen nghìn đời của người nông dân sống bám đất bám làng, thủy chung với quê hương nguồn cội. Ẩn sau cái tình yêu làng còn là cái tình yêu nước thiết tha. Nhưng cách mạng đang cần và họ phải thay đổi. Những chuyển biến âm thầm mà dữ dội ấy trong tình cảm của người nông dân Việt Nam đã được nhà văn biểu đạt hết sức xúc động bằng sự cảm thông sâu sắc.

Để làm sáng bừng tư tưởng của truyện, Kim Lân đã khéo léo để cho ông Hai tự đấu tranh. Ở nơi tản cư, ông Hai nhớ làng Chợ Dầu tha thiết. Đó là một người yêu quê hương tha thiết bằng một tình cảm tự nhiên, hồn nhiên. Tình cảm đó bắt nguồn từ những kỉ niệm trong cuộc sống hằng ngày, từ những sự vật, con người gắn bó hàng ngày … Tình cảm đó thuần phác và trong sáng biết bao. Đùng một cái, ông hay tin làng Chợ Dầu theo giặc. Ông hai “cổ nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân”. Trước hết, là sự xót xa của ông về làng mình, sự phản bội của nơi chôn rau cắt rốn của mình và nỗi tủi nhục tột cùng trào lên trong ông.

Cuộc xung đột xảy ra dữ dội trong ông, đau đớn hơn bất cứ điều gì ông đã từng trải qua. Tình yêu làng vẫn thắm thiết trong ông, làng Chợ Dầu vẫn là nới ông gửi gắm sinh mệnh, danh dự và niềm hãnh diện, tự hào. Vậy mà bây giờ làng ông lại theo Tây. Ông hoàn toàn sụp đổ.

Tình huống truyện đặt ra cho nhân vật những lựa chọn hết sức khó khăn. Liệu ông Hai có còn dám yêu cái làng của mình nữa không? Trong sự tuyệt vọng, đau khổ này, lối thoát về làng Chợ Dầu loé lên như một tia hi vọng rồi lại tắt ngấm. Trong ông tình yêu nước mạnh hơn, thiêng liêng hơn: không vì làng mà bỏ kháng chiến.

Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính, ông Hai như vừa thoát khỏi một gánh nặng tinh thần ghê gớm. Tình yêu làng của ông lại trở về hòa quyện trong tình yêu nước thắm thiết, sâu nặng hơn trong lòng người nông dân chân chất này

Khẳng định: Vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai làng Chợ Dầu tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam tuy trình độ văn hoá thấp nhưng đã có ý thức giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương, Tổ quốc. Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống pháp đã chú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý ấy.

  • Kết bài:

Từ nhận thức và tình cảm của bản thân, ông tìm cách chuyển tải nó vào văn học. Nhân vật ông Hai là kết tinh sâu sắc cái tài, cái tình của nhà văn Kim Lân đối với cuộc đời, đối với đất nước. Qua ông Hai người đọc thấy những chuyến biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp, tuy nhẹ nhàng nhưng rất rõ ràng.


Bài làm mẫu:

Những suy nghĩ về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp

  • Mở bài:

Kim Lân là nhà văn có sở trường về mảng đề tài cuộc sống và con người ở nông thôn Việt Nam. Theo Nguyên Hồng thì đó là một nhà văn “một lòng đi về với đất, với con người, với thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống, con người ở thôn quê. Làng là một truyện ngắn thành công của Kim Lân ở giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám, gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp.

  • Thân bài:

“Làng” là tác phẩm ra đời trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Truyện có kết cấu đơn giản xoay quanh nhân vật ông Hai và tình yêu của ông đối với làng Chợ Dầu của mình. Với những biến chuyển trong nhận thức và suy nghĩ, ông Hai đã trở thành hình tượng điển hình cho người nông dân Việt Nam ở giai đoạn chống Pháp.

Những chuyển biến trong nhận thức và suy nghĩ của nhân vật ông Hai thể hiện rõ nét ở tình yêu đặc biệt đối với làng.

Trước Cách mạng tháng Tám, mỗi khi kể về làng, ông chỉ khoe và tự hào về cái sinh phần sừng sững ở cuối làng của viên tổng đốc làng ông, cho dù bản thân và nhiều người khác trong lòng đã phải khốn khổ vì cái sinh phần ấy.

Sau Cách mạng tháng Tám, làng ông trở thành làng kháng chiến. Ông Hai không còn khoe cái phần ấy nữa. Ông khoe làng ông có “những hố, những ụ, những giao thông hào”, “có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”. Tình yêu làng gắn với niềm vui của con người hòa vào cuộc sống kháng chiến dân tộc.

Đối với ông hai, làng là máu thịt, là nguồn cội của con người, không thể nào rời xa được. Ông đã sinh ra ở đây, muốn sống gắn bó với làng, với xóm. khi chết đi, ông cũng muốn được nằm lại trên mảnh đất này. Trong khi đó, làng ông lại là làng kháng chiến, làng anh hùng. Ông tự hào về cái truyền thống, cái tinh thần của làng và cũng muốn ở lại cùng anh em kháng chiến. Xa làng, xa anh em, xa nhiệm vụ ông sẽ buồn biết bao. Bởi thế, lúc đầu ông lưỡng lựu, chưa muốn rời đi.

Tình yêu làng tha thiết của nhân vật ông Hai gắn chặt với tình yêu nước.

Phải xa làng đi tản cư, ông Hai rất buồn, luôn day dứt vì nhớ làng và anh em đồng chí. Ở nơi tản cư lúc nào ông cũng theo dõi và mong ngóng tin tức về làng. Những tin vui chiến thắng, ông Hai  vui sướng vô cùng “ruột gan ông cứ múa cả lên”

Ông vô cùng buồn khổ khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng lẽ đi, tưởng như đến không thở được”. “Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường”. Mấy ngày liền, ông không dám đi đâu vì xấu hổ.

Tâm trạng ông đầy sự giằng xé. Có lúc ông đã nghĩ đến việc “Hay là quay về làng”. Nhưng ông dứt khoát ngay “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”, “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Ông chỉ biết tâm sự với đứa con út bé bỏng để cho vơi bớt buồn khổ.

Khi nghe tin làng chợ Dầu được cải chính, ông Hai, sung sướng và hạnh phúc tột cùng. Gặp ai ông cũng khoe Tây đã đốt nhà mình để chứng minh cho làng Chợ Dầu không hề theo giặc “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn!”

Qua diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai, ta dễ dàng nhận thấy kháng chiến, cách mạng đã đem lại cho những người nông dân những nhận thức, những tình cảm mới mẻ, sự nhiệt tình hăng hái tham gia kháng chiến, lòng tin tưởng tuyệt đối vào kháng chiến, vào lãnh tụ.

Ở nhân vật ông Hai, tình yêu làng, vốn là một tình cảm đẹp đẽ có tính chất truyền thống của người nông dân, đã được nâng lên thành tình yêu nước. Sự thống nhất và gắn bó giữa tình yêu quê hương và tình yêu đất nước của nhân vật ông Hai cũng chính là nét mới mẻ trong nhận thức của người nông dân, của quần chúng cách mạnh trong văn hóa ở giai đoạn chống Pháp.

Kim Lân đã xây dựng rất thành công nhân vật ông Hai với phẩm chất tốt đẹp của người nông dân. Nhà văn đã khôn khóe tạo ra những tình huống thử thách để từ đó bộc lộ chiều sâu tâm trạng nhân vật. Vốn sống gần gũi ở nông thôn đã giúp cho Kim Lân thành công trong việc xây dựng hình ảnh nhân vật ông Hai. Tác giả đặc biệt tài tình khi miêu tả nội tâm nhân vật với những suy nghĩ phức tạp. giằng xé bên trong.

Cách sử dụng từ ngữ mộc mạc, gần gũi với người nông dân, sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của họ đã khiến Kim Lân có những trang văn thật dung dị mà sâu sắc. Chính vì vậy, người đọc có cảm giác ông Hai như một người nông dân với tất cả sự chân chất, mộc mạc, ngoài đời bước vào trang sách của Kim Lân.

Nhân vật ông Hai đã để lại nhiều tình cảm đẹp trong lòng người đọc, sự yêu mến trân trọng và cảm phục. Qua nhân vật ông Hai, ta thấy được những biểu hiện cụ thể, sinh động về tinh thần yêu nước của nhân vật ta trong cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc.

  • Kết bài:

Với tác phẩm Làng, Kim Lân đã thành công trong việc thể hiện những chuyển biến mới mẻ trong nhận thức và tình cảm của người nông dân Việt Nam ở giai đoạn chống Pháp. Nhân vật ông Hai trong truyện tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam cần cù, chất phác luôn cháy bỏng tình yêu đất nước, quê hương. Thế hệ tuổi trẻ hôm nay, đứng trước sự vận động phức tạp của thế giới và tình hình trong nước cần học tập tình yêu làng yêu nước của ông Hai ra sức xây dựng và bảo vệ đất nước trước âm mưu phá hoại của thế lực thù địch đang hoạt động dữ dội. Với tài năng và sức trẻ, tuổi trẻ chính là lực lượng mạnh mẽ nhất của đất nước. Bởi thế tuổi trẻ hãy sống xứng xứng đáng với những gì nhân dân đã kì vọng, tổ quốc đã tin tưởng và giao phó.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang