Soạn bài: Củng cố, mở rộng kiến thức bài 2 – Ngữ văn 9, Kết nối tri thức
Câu 1: Những nỗi niềm, xúc cảm của người chinh phụ (Chinh phụ ngâm) và khách tha hương (Tiếng đàn mưa) có điểm chung nào không? Vì sao?
Trả lời:
– Những nỗi niềm cảm xúc của người chinh phụ và khách tha hương có điểm chung. Cụ thể là:
+ Nỗi niềm bồi hồi, nhớ nhung da diết: Người chinh phụ nhớ chồng, lo lắng cho chồng nơi chiến trường; còn khách tha hương nhớ quê hương đến mức nước mắt tuôn rơi như mưa.
+ Niềm mong ngóng, chờ đợi cháy bỏng nhưng vô vọng: Người chinh phụ mong ngóng, đợi chồng về từng ngày, từng tháng mà mãi không thấy chồng đâu; khách tha hương bồi hồi, mong muốn quay trở lại quê hương nhưng điều đó thật khó xảy ra.
+ Tự đau cho bản thân mình: Người chinh phụ thấy tự sầu não, đau buồn cho kiếp cô đơn nơi “buồng cũ chiếu chăn”; khách tha hương tự buồn đau, tự thương bản thân khi phải xa quê hương.
Câu 2 : Điều gì khiến thể thơ song thất lục bát có thế mạnh khi thể hiện những nỗi niềm, xúc cảm, những khát vọng riêng tư của con người?
Trả lời:
Thể thơ song thất lục bát có thế mạnh khi thể hiện những nỗi niềm, xúc cảm, những khát vọng riêng tư của con người bởi:
– Thể thơ song thất lục bát có khả năng truyền cảm mạnh mẽ mà sâu lắng. Chính điều này khiến các nhà thơ ưu tiên sử dụng thể thơ này để truyền tải nỗi niềm của mình.
– Đây là thể thơ giàu nhạc tính, xuất hiện trong nhiều thể loại văn học (đặc biệt xuất hiện nhiều trong ngâm khúc). Điều này giúp các tác giả dễ dàng thể hiện cảm xúc của mình đến nhiều đối tượng.
– Bản chất của thể thơ song thất lục bát cũng mang đậm tính trữ tình, giàu biểu cảm, mang đậm cái hồn của người Việt.
Câu 3 (trang 60 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Tìm đọc một tác phẩm thơ song thất lục bát có nội dung đề cập tới thân phận người phụ nữ. Thân phận người phụ nữ trong các tác phẩm đó có điểm gì giống nhau với thân phận người chinh phụ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm?
Trả lời:
– Tác phẩm thơ song thất lục bát có nội dung đề cập tới thân phận người phụ nữ: tác phẩm Thân phận đàn bà của Ngọc Chi.
– Thân phận người phụ nữ trong bài thơ: Thân phận đàn bà và số phận người phụ nữ trong tác phẩm Chinh phụ ngâm đều có cuộc đời ai oán, khổ đau, long đong. Nếu như người chinh phụ khổ đau vì xa chồng, đau đớn cho thân phận mình, thì người phụ nữ trong Thân phận đàn bà lại khổ vì thân phận long đong, tương lai không xác định, đành phải cam chịu tủi nhục cả một đời.
Câu 4: Chọn phân tích một tác phẩm thơ song thất lục bát mà em yêu thích.
Trả lời:
Cảnh chia ly của những cặp vợ chồng trẻ luôn chạm đến trái tim người đọc một cảm giác đau thắt, hiu quanh. Nếu như trong Tống biệt hành, người con gái đang tiễn người chồng đi tìm cái lí tưởng cao đẹp: “Đưa người ta không đưa sang sông/ Sao có tiếng sóng ở trong lòng?” thì trong 12 khổ thơ cuối của đoạn trích Nỗi niềm chinh phụ của Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm dịch, cũng là người vợ ấy, cũng là người con trai đang tìm công danh ấy, nhưng sao thật đắng cay, bởi người chồng đang cất bước ra chiến trường. Cả đoạn thơ là lời than thở, buồn đau, hi vọng được gặp chồng của người chinh phụ khi “tống biệt” chồng ra trận:
“Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
…
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”
Mười hai câu thơ trên thuộc phần cuối của đoạn trích Nỗi niềm chinh phụ, trích trong tác phảm Chinh phụ ngâm, nguyên tác của Đặng Trần Côn, bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Tuy nhiên, cho đến nay, bản dịch này chắc chắn của Đoàn Thị Điểm không lại là vấn đề mà chưa ai dám khẳng định, nhưng phần đông các nhà nghiên cứu đều cho rằng bà là người dịch nguyên tác của Đặng Trần Côn ra chữ Nôm. Tác phẩm Chinh phụ ngâm (hay Khúc ngâm của người phụ nữ có chồng ra trận) được Đặng Trần Côn sáng tác trong khoảng năm 1710 – 1712 bằng chữ Hán. Cả bài ngâm khúc là lời tâm sự, giãi bày của người chinh phụ tiễn chồng ra trận. Trong mười hai câu thơ cuối bài, nỗi niềm ai oán, nhớ nhung của người chinh phụ càng đậm nét hơn cả.
Người chinh phụ mang nỗi hờn tủi, cô quạnh sau khi tiễn chồng đi:
“Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.”
Thủ pháp đối được tác giả sử dụng vô cùng tài tình và ý nhị. Chàng thì “đi”, còn thiếp thì “về”, nơi chàng đi là ‘cõi xa mưa gió”, nơi nàng về là “buồng cũ chiếu chăn”. Khoảnh cách giữa người chinh phụ và người chinh phu ngày càng bị kéo dài ra. “cõi xa mưa gió” là hình ảnh ẩn dụ, chỉ nơi chiến trường mà người chinh phu phải đến, hoặc cũng có thể, đây là hình ảnh chỉ sự hi sinh của người chinh phu trên trận mạc. Còn hình ảnh “buồng cũ chiếu chăn” ý chỉ nơi mà hai vợ chồng từng mặn nồng với nhau, giờ đây chỉ còn lại mình nàng. Người chinh phụ phải cô đơn lẻ bóng, lo lắng chồng mình ở chiến trường, không biết rồi mai, liệu chồng còn trở về bên mình.
Người chinh phụ nhìn mãi, ngóng theo chồng nơi xa, nhưng càng trông theo lại càng không thấy bóng dáng chồng:
“Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh.”
Nàng nhìn về phía chồng, không thấy đạn khói của chiến tranh, chỉ thấy “mây biếc” và “núi xanh”. Màu xanh bao trùm lấy hai câu thơ, không chỉ miêu tả khung cảnh trước mắt người chinh phụ, mà còn gợi cảm giác heo hút, lãnh lẽo, cô đơn trong cõi lòng của nàng. Biện pháp đảo ngữ “tuôn màu mây biếc” và “trải ngần núi xanh” khiến không gian thiên nhiên như trải dài vô tận,
Xa mặt nhưng không cách lòng, người chinh phụ và người chinh phu luôn nhớ đến nhau:
“Chốn Hàm Kinh chàng còn ngoảnh lại.
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương,
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.”
Hàm Dương và bến Tiêu Tương “cách mấy trùng”, nhưng hai người ở hai bên luôn gửi những nỗi nhớ mong, hi vọng cho nhau. Người chinh phu “ngoảnh lại”, nhìn về phía quê nhà, nơi vợ con đang ngóng chông chàng. Trước khi lên ngựa đi xa, chàng bịn rịn vợ con: “Nhủ rồi nhủ lại cầm tay,/ Bước đi một bước dây dây lại dừng”, chàng đi một bước, lại ngoảnh đầu nhìn người vợ một lúc. Và giờ đây, khi đã ra chiến trường, chàng cũng vẫn ngoảnh đầu nhớ thương vợ. Còn người chinh phụ ở nhà luôn “trông sang”, trông đến nơi chiến trường đổ máu. Biện pháp đối tài tình vẫn tiếp tục được sử dụng trong các câu thơ, như đang thể hiện sự đối lập giữa hoàn cảnh của hai người, nhưng lại có sợi dây vô hình gắn kết trái tim của người chinh phu và người chinh phụ.
Niềm hi vọng chồng trở về của người chinh phụ ngày càng le lói, thay vào đó là nỗi nhớ đến đỉnh điểm, nỗi đau đớn dâng trào:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”
Màu xanh lại xuất hiện trong mắt người chinh phụ, nhưng đây không phải màu xanh tươi mát của bầu trời, mà là màu xanh ngắt trải dài của ruộng dâu. Biện pháp điệp ngữ ‘cùng…”, điệp từ “thấy”, “ngàn dâu” như đang diễn tả sự luẩn quẩn, sự sầu đau không thể diễn tả của người chinh phụ. Nàng nhìn ra xa, ngóng chồng mãi, nhưng chỉ thấy ruộng dâu xanh ngắt. Một cảm giác cô đơn, hiu quạnh ngập tràn trong lòng người đọc. Cũng dùng màu sắc để diễn tả cuộc chia tay, nhưng có lẽ, sắc đỏ trong bài thơ Cuộc chia ly màu đỏ của Nguyễn My phần nào mang cảm giác hi vọng hơn: “Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ/ Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa.” Kết thúc đoạn thơ là một câu hỏi tu từ mà mãi sẽ không bao giờ có câu trả lời: “Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”. Thiếp và chàng đều mang trong mình những nỗi đau khắc khoải, không biết chàng hay thiếp, ai mang nỗi sầu đau hơn? Câu hỏi cất lên như giãi bày hết mọi sầu đau, như tiếng thét đau đớn tột cùng cất lên.
Như vậy, với cách sử dụng biện pháp đảo ngữ, phép đối, câu hỏi tu từ hết sức khéo léo, ngôn ngữ bình dân kết hợp với ngôn ngữ bác học, Đặng Trần Côn đã diễn tả sâu sắc hơn nỗi niềm xót thương, lo lắng, nhớ nhung chồng và ai oán cho thân phận mình của người chinh phụ. Qua đó, ta càng hiểu hơn về những mất mát mà chiến tranh đã gây ra với nhân dân ta.