Soạn bài: Thực hành tiếng Việt: Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp – Ngữ văn 9, Kết nối tri thức
Câu 1: Xác định phần dẫn trong các câu sau, cho biết phần đó được dẫn theo cách trực tiếp hay gián tiếp. Những dấu hiệu nào giúp em nhận ra điều đó?
a. Khi chồng ra đi, nàng giãi bày nỗi niềm của mình: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu […], chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”.
(Nguyễn Đăng Na, “Người con gái Nam Xương” – một bi kịch của con người)
b. Theo như lời thầy giáo của tôi bảo, người La Mã xưa kia nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hàng lỗ con vòng quanh miệng, quanh đáy.
(Đoàn Giỏi, Đất rừng phương Nam)
Trả lời:
a. Phần dẫn trong câu là: Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn hầu […], chỉ xin ngày vè mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi.
→ Đây là phần dấn theo cách trực tiếp. Dấu hiệu: phần dẫn được đặt sauu dấu hai chấm và trong dấu ngoặc kép.
b. Phần dẫn trong câu là: Người La Mã xưa kia nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hàng lỗ con vòng quanh miệng, quanh đáy.
→ Đây là phần dẫn theo cách gián tiếp lời của thầy giáo. Dấu hiệu: phần dẫn không được đặt trong dấu ngoặc kép
Câu 2: Hãy chuyển cách dẫn trực tiếp trong các câu dưới đây sang cách dẫn gián tiếp:
a. Nỗi oan của Vũ Nương sẽ còn đeo đẳng mãi lấy nàng, nếu như không có một đêm tình cờ đứa bé nói: “Cha Đản lại đến kia kìa!”
b. Thủ lĩnh da đỏ Xi-át-tơn đã khẳng định: “Đối với đồng bào tôi, mỗi tấc đất là thiêng liêng, mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ cát, mỗi hạt sương long lanh trong những cánh rừng rập rạp, mỗi bãi đất hoang và tiếng thì thầm của côn trùng là những điều thiêng liêng trong kí ức và kinh nghiệm của đồng bào tôi.”
c.Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã bộc lộ thành thực một tâm trạng: “Dầu có ưa thơ người này người khác, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư. Có những bài thơ cứ vương vấn trong trí tôi hàng tháng, lúc nào cũng như văng vẳng bên tai. Bởi vì thơ Lư nhiều bài thực không phải là thơ, nghĩa là những công trình nghệ thuật, mà chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta”.
Trả lời:
a. Nếu như đứa bé không tình cờ thông báo sự xuất hiện của cha Đản trong một đêm, nỗi oan của Vũ Nương sẽ còn đeo dẳng mãi lấy nàng.
b. Theo thủ lĩnh da đỏ Xi-át-tơn, đối với đồng bào của ông, mỗi tấc đất là thiêng liêng, mỗi lá thông óng ánh, mỗi bờ cát, mỗi hạt sương long lanh trong những cánh rừng rậm rạp, mỗi bãi đất hoang và tiếng thì thầm của côn trùng đều là những điều thiêng liêng trong kí ức và kinh nghiệm của đồng bào ông.
c. Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã bộc lộ rằng, ông đều nhớ về Lưu Trọng Lư mỗi lúc buồn. Thơ Lưu Trọng Lư vương vấn trong tâm trí Hoài Thanh hàng tháng, lúc nào cũng văng vẳng bên tai. Thơ Lưu Trọng Lư nhiều bài không thật sự là thơ, mà còn là tiếng lòng thổn thức hòa cùng tiếng thổn thức của mỗi người.
Câu 3 : Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 5 – 7 câu) có nội dung liên quan đến ý kiến dưới đây, trích dẫn ý kiến đó theo cách trực tiếp hoặc gián tiếp:
Cái tài của Nguyễn Dữ là ông đã dung hòa được hiện thực với ước mơ, giữa cái tồn tại với cái ảo ảnh.
Trả lời:
Nguyễn Đăng Na từng cho rằng: “Cái tài của Nguyễn Dữ là ông đã dung hòa được hiện thực ước mơ, giữa cái tồn tại với cái ảo ảnh”. Qủa thật, đây cũng chính là một nét đặc sắc mà chưa một tác phẩm truyện truyền kì nào có được. Nguyễn Dữ vốn là một nhà văn nhân đạo, ông sẽ không để nhân vật mang cốt cách đẹp phải chết vĩnh viễn. Chính vì vậy, ông mới để cho Vũ Nương được sống lại, được gặp gia đình, nhưng chỉ được đứng từ xa và biến mất trong ảo ảnh. Chính sự kết hợp ấy mới thật sự làm cho những bi kịch trong các tác phẩm của ông đau đớn, dai dẳng.