Tính sử thi và cảm hứng lãng mạn trong truyện ngắn Rừng xà nu.
- Mở bài:
Nguyễn Trung Thành là nhà văn tiêu biểu của nền văn học kháng chiến. Ông có thời gian dài gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ nên ông được gọi là nhà văn của núi rừng Tây Nguyên. Những trang viết của ông đậm chất Tây Nguyên, là tiếng nói, là nỗi lòng của người dân nơi đây. Truyện ngắn Rừng xà nu là tình cảm, tấm lòng của tác giả đối với thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Cái làm nên sự khác biệt và thành công của tác phẩm này nằm ở tính sử thi và cảm hứng lãng mạn rõ nét, không thể lẫn lộn được.
- Thân bài:
Khuynh hướng sử thi luôn hướng tới phản ánh những vấn đề lớn lao, những sự kiện, biến cố quan trọng, có ý nghĩa sống còn với cả một cộng đồng, một dân tộc, ngợi ca chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng.
Nhân vật chính thường là những đại diện ưu tú của cộng đồng, tiêu biểu cho lý tưởng và khát vọng của cộng đồng, gắn bó số phận mình với số phận cộng đồng, thể hiện và kết tinh phẩm chất cao đẹp của cộng đồng.
Con người chủ yếu được khám phá ở bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, ý thức chính trị với lẽ sống và tình cảm lớn. Cái riêng tư nếu có cũng chỉ để nhấn mạnh trách nhiệm và tình cảm cá nhân đối với cộng đồng.
Lời văn sử thi thường có giọng điệu ngợi ca, trang trọng, ngôn từ thường mang tính cách điệu, đẹp một cách tráng lệ hào hùng.
Tính sử thi trong Rừng xà nu.
Tính sử thi của tác phẩm Rừng xà nu được thể hiện trước hết ở việc lựa chọn đề tài của tác phẩm. Rừng xà nu đề cập đến vấn đề chung của cộng đồng xã hội, của đất nước. Đó là cuộc đấu tranh quyết liệt của đồng bào Tây Nguyên cũng như của dân tộc ta với bọn đế quốc và tay sai. Từ đề tài này truyện ngắn rừng xà nu đã thể hiện một chủ đề mang tính sử thi đó là chân lí đấu tranh cách mạng chân lí giản dị mà sâu sắc của thời đại được thể hiện qua lời phát biểu của cụ Mết: “ chúng nó đã cầm súng thì mình phải cầm giáo”. Bạo lực cách mạng mới đánh đổ được bạo lực phản cách mạng, đấu tranh vũ trang để giải phóng nhân dân, đó là con người tất yếu
Về tư tưởng, Nguyễn Trung Thành đã lí giải cuộc đời số phận của nhân vật chính trong mối quan hệ với lịch sử của cả cộng đồng. Mâu thuẫn trong gia đình Tnú với kẻ thù đã đẩy xung đột nông dân cách mạng với kẻ thù trở thành gay găt và quyết liệt buộc phải có một cuộc đồng khởi để đánh lại giặc ngoại xâm giành lại cuộc sống tự do cho nhân dân. Đây là con đường tất yếu của lịch sử dân tộc
Nhân vật trong Rừng xà nu đại diện cho phẩm chất, sức mạnh, lí tưởng của cả cộng đồng. Trong tác phẩm, Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công một tập thể anh hùng những anh hùng được kể từ trong đó đều có tính đại diện cao mang trong mình hình ảnh cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong Rừng xà nu rất đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có nét riêng cho cộng đồng chung. Tất cả họ đều giống nhau ở một phẩm chất cơ bản: gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạnh. Dĩ nhiên, hình tượng văn học nào cũng là sự thống nhất giữa cái cá biệt và cái tổng quát. Nhưng ở rừng xà nu cảm hứng về cái chung mang tính chất chi phối
Hình tượng rừng xà nu trong tác phẩm cũng mang tính chất sử thi đây là bức tranh hoành tráng về thiên nhiên trong đau thương mà vẫn rất anh dũng mặc dù bị trúng bom đại bác của giặc hàng vạn cây không còn cây nào không bị thương nhưng chúng vẫn đổ ào ào như một trận bão đồng thời vẫn chứng tỏ sức sinh sôi nảy nở đến lạ thường. Bên cạnh một cây mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng đến bầu trời.
Rừng xà nu còn miêu tả các sự kiện, các nhân vật anh hùng từ cái nhìn chiêm ngưỡng khâm phục cái nhìn mà Chế Lan Viên gọi là cái nhìn của “con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa”. Tất cả các chi tiết đời thường ít được nhắc tới, nhà văn chỉ tâm đắc với những chi tiết nào có khả năng làm phát lộ được phẩm chất anh hùng của nhân vật. Tả cụ Mết nhà văn chú ý tới giọng nói ồ ồ dội vang trong lồng ngực của cụ tươrng như trong tiếng cụ nói có âm vang của tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng của núi rừng, của lịch sử. Mỗi lời cụ thốt ra kết tinh trải nghiệm của cả một cuộc đời nó cô đúc sâu sắc như những chân lí. Ngay cả cuộc đời nhân vật Tnú, một cuộc đời trải ra trong chính thời hiện tại cũng đã được lịch sử hóa và nhuốm màu huyền thoại. Đêm đêm bên bếp lửa nhà ưng cụ Mết đã kể chuyện anh cho lũ làng nghe, anh đã trở thành niềm tự hào của làng trở thành biểu tượng sống động của người anh hùng được tất cả mọi người ngưỡng vọng học tập
Ngôn ngữ của tác phẩm mang tính chất trang trọng, giàu hình ảnh có tính biểu tượng cao và giàu gợi từ gợi cảm Giọng điệu tác phẩm mang âm hưởng hùng tráng lay động và khích lệ mạnh mẽ tình cảm của người đọc
Nguyễn Trung Thành thường sử dụng thủ pháp nghệ thuật so sánh và cường điệu nhằm khắc họa nổi bật hình ảnh những nhân vật tượng trưng cho phẩm chất cao đẹp và ý chí khát vọng của cả cộng đồng. Kết cấu đầu cuối tương ứng của tác phẩm cũng góp phần làm nên tính sử thi của thiên truyện.
Cảm hứng lãng mạn trong rừng xà nu.
Trong chiến tranh con người Việt Nam phải trải qua nhiều đau thương mất mát nhưng luôn hướng tới tương lai hạnh phúc và niềm vui đây chính là cảm hứng lãng mạn của nhiều tác phẩm văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 và cũng là cảm hứng chủ đạo của Rừng xà nu.
Biểu hiện của cảm hứng lãng mạn trước hiết được thể hiện qua tình yêu rất thơ mộng của Tnú và Mai. Lúc nhỏ Mai và Tnú vào rừng làm liên lạc đưa thư cho anh Quyết, được anh Quyết dạy chữ cách mạng cho nhưng Tnú rất nhanh quên. Tnú đã đập bể cái bảng bỏ ra suối ngồi lì ở đó một ngày rồi lấy đá đập vào đầu cho chảy máu ra, được anh Quyết dỗ dành, dạy bảo, Tnú đã gọi Mai ra hốc đá hỏi Mai cái chữ. Đây là kỉ niệm tuổi thơ ngây thơ trong sáng và ngọt ngào. Nhất là khi Mai thành thiếu nữ đón Tnú ở ngã ba đường rừng vừa vượt ngục trở về Mai đã cầm bàn tay của Tnú vừa yêu thương vừa xấu hổ và hai người đã trao cho nhu mối tình đầu. Đây là câu truyện đẹp như ánh trăng rằm lung linh tỏa sáng núi rừng Tây Nguyên. Đây là yếu tố góp phần làm nên vẻ đẹp lãng mạn của thiên truyện.
Bức tranh thiên nhiên rừng xà nu vừa mang vẻ đẹp bi tráng và giàu chất thơ. Đoạn văn miêu tả cây xà nu hướng về ánh sáng mặt trời thật lãng mạn “Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng, thứ ánh sáng từ trong rừng từ trên cao rọi xuống từng luống lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từng nhựa cây ứa ra. Thơm mỡ màng”. Nhà phê bình văn học Đỗ Kim Hồi nhận xét : “Nguyễn Thành Trung đã không dè xẻn chất vàng son của ngôn từ quyết làm cho bức tranh vê rừng xà nu phải trở thành tấm sơn mài lộng lẫy.”
Như vậy, kẻ thù càng tàn bạo man rợ bao nhiêu thì thiên nhiên Tây Nguyên càng chứng tỏ sức mạnh của mình bấy nhiêu. Đây chính là cảm hứng lãng mạn của Rừng xà nu và của văn học Việt Nam một thời.
- Kết bài:
Truyện ngắn Rừng xà nu là một trong những sáng tác thành công nhất về cuộc sống con người Tây Nguyên, là tác phẩm thể hiện đậm nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành trong việc miêu tả, kể chuyện, lựa chọn ngôn ngữ, xây dựng hình tượng yếu tố chịu sự chi phối sâu sắc của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Rừng xà nu là bản anh hùng ca của thời chống Mĩ, là tiếng nói của lịch sử và thời đại, không chỉ ca ngợi ý chí bất khuất, tinh thần chiến đấu ngoan cường của người dân Tây Nguyên mà còn lí giải con đường giải phóng của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến chống Mĩ cứu nước. Truyện ngắn Rừng xà nu là bài ca về tình yêu cuộc sống, là lời nhắc nhở con người hãy làm tất cả vì cuộc sống của đất nước, nhân dân, cũng là của chính bản thân mình.
Đọc thêm:
- Cảm nhận chất sử thi qua hình tượng cụ Mết.
- Tính sử thi và đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn Rừng xà nu
- Phân tích vẻ đẹp hình tượng cây xà nu trong Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- Vẻ đẹp sử thi của hình tượng con người cách mạng Tây Nguyên trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Tham khảo:
Phân tích tính sử thi trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
- Mở bài:
Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) là nhà văn có thời gian dài gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ nên ông được gọi là nhà văn của núi rừng Tây Nguyên. Những trang viết của ông đậm chất Tây Nguyên, là tiếng nói, là nỗi lòng của người dân nơi đây. Truyện ngắn Rừng xà nu là tình cảm, tấm lòng của tác giả đối với thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Cái làm nên sự khác biệt và thành công của tác phẩm này nằm ở tính sử thi rõ nét, không thể lẫn lộn được.
- Thân bài:
Chất sử thi hùng tráng trong rừng xà nu.
Sử thi là một thể loại văn tự sự, có quy mô hoành tráng, mang ý nghĩa của cộng đồng, dân tộc, ngợi ca những người anh hung tiêu biểu với những tính cách tiêu biểu cho một dân tộc. Sử thi toát lên từ ngôn ngữ, giọng điệu, cảm xúc chủ đạo, nội dung của tác phẩm. Rừng xà nu không phải tác phẩm sử thi nhưng yếu tố sử thi được làm nền rất rõ nét. Âm hưởng sử thi lan rộng ra toàn bộ tác phẩm nhưng linh hồn và sự bất diệt của mảnh đất Tây Nguyên.
Rừng xà nu lấy bối cảnh cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra mạnh mẽ ở miền Nam; khởi nghĩa Đồng Khởi đang sôi sục diễn ra và cảnh tang thương khi quân Mỹ lê máy chém đi khắp miền Nam. Hiện thực đau lòng, mất mát ấy dội lên ý chí quật cường, đứng lên khởi nghĩa của người dân Tây Nguyên nói riêng và cả nhân dân miền Nam nói chung. Tính sử thi vì thế mà được “thế” trỗi dậy phát huy hết tác dụng của mình.
Tính sử thi của truyện ngắn Rừng xa nu trước hết nằm ở thiên nhiên, núi rừng hung vĩ, bao la, rộng lớn làm nền cho câu chuyện phát triển. Thiên nhiên ấy góp phần ngợi ca những con người kiên cường, anh dũng bất khuất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thiên nhiên nơi đây chính là một biểu tượng cho một dân tộc hùng mạnh, không khuất phục trước kẻ thù và hình ảnh “rừng xà nu” là tượng trưng tiêu biểu ấy.
Bối cảnh lịch sử của câu chuyện dẫn người đọc đi từ đau thương mất mát này đến đau thương mất mát kia. Đất nước lầm than, nhân dân cùng cực khi chứng kiến cảnh Mỹ ngang tàng lê máy chém đi khắp miền Nam tàn sát nhân dân vô tội. Hành động gian ác ấy khiến nhân dân vô cùng căm phẫn và cách mạng Đồng Khởi năm 1959 đang sôi sục được chuẩn bị. Cuộc cách mạng này là cả một quá trình dồn nén đau thương, máu và nước mắt của toàn dân tộc, sẽ là sự bùng lên của một thời gian dài chìm trong cảnh nô lệ cay nghiệt. Nguyễn Trung Thành đã xây dựng nên hình ảnh làng Xô man anh hùng, bất khuất. Hình ảnh cả một ngôi làng ấy biểu tượng cho cả một dân tộc thu nhỏ không chịu đầu hàng và khuất phục trước kẻ thù gian ác. Con người Tây Nguyên và con người dân làng Xô man chìm vào cảnh máu lửa, bị o ép, bị dồn vào bước đường cùng. Chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, máu loang thành sông, những người nơi đây chỉ còn cách đứng dậy đấu tranh, cầm vũ khí tự cứu lấy mình. Âm hưởng sử thi từ đó mà vang lên thật hào hùng, oanh liệt. Tinh thần, sự kiên cường dũng cảm đã là âm hưởng chủ đạo của toàn tác phẩm.
Đặc biệt hơn nữa, tác giả đã khắc họa đậm nét hình ảnh nhân vật Tnú, người con của Tây Nguyên chịu nhiều mất mát, đau thương, gia đình anh bị kẻ thù giết sạch, anh bị tra tấn dã man. Hình ảnh hai bàn tay của Tnú bị đôt, cháy lên như một lời cảnh tỉnh mang ý nghĩa sâu xa nhất, buộc người Tây Nguyên phải vùng lên đấu tranh.
Hình ảnh “rừng xà nu” gắn với hình ảnh dân làng Xô man có ý nghĩa cộng hòa nhau hỗ trợ cho nhau cũng làm nên sự thành công của tính sử thi trong tác phẩm này. Tác giả mở đầu là hình ảnh rừng xà nu và kết thúc cũng là hình ảnh rừng xà nu bạt ngàn. Rừng xà nu chính là biểu tượng của cả dân tộc Xô man, sức sống mạnh mẽ của loại cây này cũng là sức sống của người dân Tây Nguyên.
Khi đọc tác phẩm Rừng xà nu của nguyễn Trung Thành âm hưởng chủ đạo chính là giọng hào hùng, đanh thép. Mặc dù mất mát đau thương nhưng không hề bi lụy. Bởi rằng âm hưởng chính đã lân át đi những mất mát đau thương đó.
Cảm hứng lãng mạn trong Rừng xà nu.
Cảm hứng lãng mạn khẳng định cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc và hướng về lí tưởng, về tương lai. Cảm hứng lãng mạn trong văn học 1945 – 1975 là cảm hứng lãng mạn tích cực, cảm hứng lãng mạn cách mạng. Nó giúp con người ta vượt lên trên cuộc sống gian khổ và ác liệt mà hướng về tương lai chiến thắng, về cuộc sống hạnh phúc và xây dựng chủ nghĩa xã hội sau chiến tranh.
Đứng trước giai đoạn khó khăn nhất của lịch sử, sự tồn vong của dân tộc, sự ác liệt đến tàn khốc của chiến tranh, không cho phép con người ở giai đọan lịch sử này sống bằng lợi ích cá nhân, bằng thực tại thiếu thốn thốn và gian khổ. Mà họ chỉ có thể sống bằng lịch sử, bằng lí tưởng bằng tương lai huy hoàng của Độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội
Cảm hứng lãng mạn được thể hiện ở hướng vận động của cốt truyện, của số phận nhân vật của dòng suy tưởng, người cầm bút đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ đến niềm vui, từ hiện tại khó khăn đến tương lai đầy hứa hẹn.
Mặc dù cuộc sống và chiến đầu còn gian khổ ác liệt (không đủ gạo, không đủ muối,phải tích trữ để đánh giặc dài dài; vũ khí còn rất thô sơ ) nhưng người dân Tây Nguyên từ già đến trẻ đều tin tưởng vào Đảng vào Bác Hồ “Đảng còn núi nước này còn”, nghe theo sự chỉ đạo của cán bộ Quyết; bảo về cán bộ Quyết như bảo vệ Đảng; Họ tin vào con đường đấu tranh của mình “chúng nó cầm vũ khí mình phải cầm giáo mác”, tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc của đất nước.
Trước sự khủng bố đàn áp đẫm máu của kẻ thù (bắn đại bác vào đồi xà nu ngày hai lần, không cây nào là không bị thương; chúng chặt đầu bà Nhan, ánh Xút…)nhưng người dân Tây Nguyên trên dưới một lòng đoàn kết đánh giặc (Tnu, Mai vẫn làm liên lạc nuôi dấu cán bộ; Dít vẫn mang gạo vào rừng cho cụ Mết và đám thanh niên; Tnu khi bị giặc tra tấn dã man vẫn kiên quyết không khai…; dân làng nghe theo sự chị đạo của cụ Mết nhất tề đứng lên đánh giặc).Những con người Tây nguyên từ thế hệ này đến thế hệ khác đều biết đặt lợi ích của cộng đồng, của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân; đều biết hi sinh lợi ích cá nhân cho một tương lai tươi sáng huy hoàng…
Cốt truyện và số phận nhân vật vân động từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ đến niềm vui, từ khó khăn hiên tại đến tương lai đầy hứa hẹn. Cuộc đấu tranh của dân làng Xô man từ bị động sang chủ động; Tnu từ một đúa trẻ mồ côi trở thành anh giải phóng, dũng sĩ diệt Mĩ; các thế hệ của dân làng Xô man trưởng thành và khẳng định được mình trong cuộc đấu tranh ác liệt này (Dịt, bé Heng)…
Đứng trước sự tồn vong của lịch sử của dân tộc, sự tàn khốc ác liệt của chiên tranh, con người sống ta không được phép sống vì lợi ích cá nhân, mà họ chỉ có thể sống bằng lịch sử, bằng lí tưởng bằng tương lai huy hoàng của Độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Nguyễn Trung Thành cùng tập thể dân làng Xô mạn cũng không phải là ngoại lệ. Họ đã sống và chiến đấu hết mình, vượt lên trên cuộc sống gian khổ và ác liệt mà hướng về tương lai chiến thắng, về cuộc sống hạnh phúc
- Kết bài:
Có thể thấy rằng Rừng xà nu là một câu chuyện vang dội tính sử thi từ đầu câu chuyện cho đến khi kết thúc câu chuyện; lắng lại trong lòng người đọc nhiều dư ấm vang dội nhất. Sự thành công của tác giả chính là làm sống dậy một dân tộc có ý chí quật cường, làm sôi sục lên tinh thần đấu tranh không ngừng nghỉ khi có áp bức bóc lột.
Tham khảo:
Chất sử thi hùng tráng trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
- Mở bài:
“Rừng xà nu” là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Trung Thành và của văn học thời chống Mĩ. Đọc “Rừng xà nu” những nhân vật như cụ Mết, Tnú, Dít, Mai… tạo nên ấn tượng sâu sắc nơi độc giả. Nổi bật hình ảnh cây. xà nu được lặp đi lặp lại gần hai mươi lần một hình tượng đặc sắc bao trùm tọàn bộ thiên truyện ngắn này. Hình tượng ấy đã tạo nên vẻ đẹp hùng tráng, chất sử thi và lãng mạn cho câu chuyện về làng Xô-man bất khuất, kiên cường.
- Mở bài:
Qua tác phẩm, cây xà nu, rừng xà nu đã được Nguyễn Trung Thành miêu tả thật cụ thể, thật chi tiết với ngôn ngữ giàu chất thơ, bằng những “lời văn có cánh” trong một cảm xúc thật say mê và mãnh liệt. Cây xà nu trong truyện xuất hiện rất nhiều lần và đường như rất quen thuộc với con người nơi núi rừng Tây Nguyên, nó tham dự vào tất cả những sinh hoạt, những tâm tình, những buồn vui của người dân nơi đây trong cuộc chiến đâu chống Mĩ thật anh dũng của họ. Tác phẩm “Rừng xà nu” là một bản anh hùng ca về cuộc đời anh dũng, đau thương, bất khuất của Tnú cũng như của tất cả dân làng Xô-man. Câu chuyện ấy được kể trên nền tảng chính của hình tượng cây xà nu – một hình tượng hàm chứa rất nhiều ý nghĩa tượng trưng và khái quát. Những cây xà nu, rừng xà nu như những con người, những tâm hồn sống, vừa là nhân chứng, vừa tham gia bản anh hùng ca, cũng vừa chịu đựng mọi vất vả, đau thương dưới tầm đạn kẻ thù. Nhưng bất chấp tất cả, rừng xà nu vẫn tràn đầy sức sống, vẫn vươn mình lên cường tráng vượt lên mọi thương đau. Cây xà nu là một hình ảnh mang tính chất tượng trưng cho khát vọng tự do, khát vọng giải phóng, cho phẩm chất anh hùng và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của dân làng Xô-man.
Mở đầu câu chuyện là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây” và kết thúc vẫn là “những rừng xà nu nốì tiếp chạy đến chân trời”. Hình ảnh ấy như một nét nhạc trầm hùng, một bản đàn dạo, là cái “phông” cho cả một câu chuyện khiến thiên truyện càng mang đậm tính sử thi và lãng mạn hơn. Rừng cây xà nu được xem như là biểu tượng cho con người Xô-man. Với hình ảnh nhân hóa, Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cây xà nu như những con người, chúng cũng có “vết thương”, biết “ham ánh sáng” và “ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho làng”. Cây xà nu còn là một hình ảnh so sánh với con người “ngực căng bằng cây xà nu”. Rừng xà nu năm tháng đứng dưới tầm đại bác kẻ thù chịu đựng biết bao tàn phá, cũng như những đau thương mà dân làng phải gánh chịu trước ách kìm kẹp của giặc. “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương”. “Cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình nhựa ứa ra, tràn trề”., rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn”. Hình ảnh đó gợi lên lòng căm thù và kết tụ một ý chí phản kháng.
Nhưng hơn hết vẫn là sức sống mãnh liệt đầy sức trẻ của rừng xà nu bạt ngàn. “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”, “có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắc như những mũi lê” “nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh sáng”. Thế mới biết sức trẻ của cây xà nu mãnh liệt đến dường nào! Sức trẻ ấy còn mang tính tượng trưng cho thế hệ trẻ của làng Xô-man. Đó là những Mai, Dít, Tnú, Heng, những con người luôn gắn bó với cách mạng, bất khuất từ tuổi thơ, lớn lên trong lửa đạn, trưởng thành trong đau thương và sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì tự do của dân tộc.
Bên cạnh đó, sức sống bất khuất kiên cường của cây xà nu còn được tạo bởi hàng vạn cây ở những đồi xà nu nói tiếp nhau tới chân trời ở tấm ngực lớn của rừng ưỡn ra che chở cho làng. Đó là những cây xà nu thật vững chắc, xanh tốt đã vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá sum suê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã”, một cây ngã xuống tức thì bốn năm cây con lại mọc lên cứ thế trở thành cả một rừng cây xà nu nối tiếp đến chân trời. Những cây xà nu, rừng xà nu ấy là hình ảnh của dân làng Xô-man kiên cường chống giặc, bất chấp mọi hi sinh, một lòng đi theo Đảng, đi theo kháng chiến hết thế hệ này đến thế hệ khác. Đó là những cụ Mết, anh Xút, Tnú, Mai, Dít, anh Brơi… mà tiêu biểu là hình ảnh cụ Mết. Nhà văn đã ví cụ “như một cây xà nu lớn”. Hơn ai hết, cụ là người hiểu rất rõ sự gắn bó của cây xà nu và mảnh đất đang sống, hiểu được sức mạnh tiềm tàng bất khuất của rừng xà nu cũng như của dân làng Xô-man. Chính cụ Mết đã nói với Tnú “không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”, “cây mẹ chết cây con lại mọc lên”.
Cây xà nu còn là người chứng kiến sự giác ngộ, sự hi sinh thầm lặng, lòng đũng cảm và ý chí quật khởi của dân làng Xô-man. “Đứng trên đồi cây xà nu gần con nước lớn, cả vùng Xô-mạn ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng”. Ánh lửa xà nu soi sáng lời căn dặn của anh Quyết: “Người còn sống phải chuẩn bị dao, mác, vụ, rựa, tên, ná… Sẽ có ngày dùng tới”. Lửa xà nu thử thách ý chí cũng như lòng can đảm của Tnú: “Không có gì đượm bằng nhựa cây xà nu. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc… máu anh mặn chát ở đầu lưỡi…”
Thoạt đầu là “hai bàn tay anh lúc ấy còn lành lặn”, bàn tay chú bé Tnú dắt cô bé Mai lên rẫy trồng tỉa, xách xà lét giấu vài lon gạo đi nuôi cán bộ Quyết trốn ở rừng; bàn tay cầm viên phấn bằng đá trắng, lấy từ núi Ngọc Linh về, viết lên bảng đen đan bằng nứa hun khói xà nu, để học chữ y dài, chữ 0 thêm móc thành a; bàn tay cầm đá đập vào đầu vì học dốt; bàn tay mang công văn đi làm liên lạc; hai bàn tay mà Mai đã cầm lấy, ở gốc cây to đầu rừng lách, khi Tnú thoát ngục Kon Tum, bàn tay duyên nợ Mai vừa cầm vừa “ứa nước mắt khóc, không phải vì như một đứa trẻ nữa mà như một người con gái đã lớn, vừa xấu hổ vừa thương yêu”.
Bàn tay nguyên vẹn đó không còn. Cụ Mết có bàn tay nặng trịch nắm chặt như kìm sắt, hỏi: “Mười ngón tay mày vẫn cụt thế à? Không mọc ra được nữa à!… Ư!.”… Câu hỏi đó rất đột ngột, như người sực tỉnh, chợt nhớ đến một điều hệ trọng. Ông cụ hỏi và tự trả lời. Sự thật đau đớn không tin là thật, cụ ngạc nhiên sao ngón tay lại cụt, cụt rồi sao không mọc lại? Một tiếng “ừ” cam chịu và đe doạ. Cụ giận dữ nói tiếp: “…Được! Ngón tay còn một hai đốt cũng bắn súng được. Mày có đi qua chỗ Rừng xà nu gần con nước lớn không? Nó vẫn sống đây”. Đúng thế, con người, thiên nhiên, đất nước vẫn sống, vượt lên mọi đoạ đày, chém giết.
Cây xà nu còn là người chứng kiến sự giác ngộ. Cây xà nu ở Xô Man mọc thành rừng “ươn tấm ngực lớn che chở cho làng”. Nhựa nó “thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt”, nó “sinh sôi nảy nở khoẻ… một cây mới ngã gục, đã có ‘bốn năm cây mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời” như thế hệ trẻ Dít, Heng nốì tiếp Tnú, Mai, lớp người này đã từng thay thế Quyết. Xà nu đôt lên làm ngọn lửa thổi cơm, xông khói sưởi âm, lem luốc cả lũ trẻ không áo mặc, làm đuốc soi cho Dít giã gạo, cháy giần giật trong gió, trong mưa soi đường cho cụ Mết dẫn dân làng vào rừng lấy giáo mác, vụ rựa giấu kỹ đem ra nổi dậy. Cây mọc bên con nước lớn, bên con suối nhỏ, cây ham ánh nắng còn Tnú ham tự do, đi đâu cũng nhớ trở về làng. Đạn đại bác rót thành lệ mồi ngày, sát thương hàng vạn cây. Cây bị chặt đứt ngang thân, đổ xuống ào ào, chết lập tức tại trận, giữa tuổi xanh cây. Như Mai chết đang sinh nở. Cây bị thương ứa nhựa tràn trề như máu xối. Máu đổ bao giờ cũng gây một cảm giác thiêng liêng, máu chả là sự sống đang bị rời đi từng giọt từng giây, là giao điểm tiếp cận cái hư vô vĩnh cửu. Nhựa xà nu “bầm đen lại và đặc quyện lại thành từng cục máu lớn”, cục máu không tan như một di hận đòi trả thù. Nhưng có thân cây, có bàn tay vượt qua thử thách, lành lại vêt thương, lên da non, cường tráng như cũ.
Bàn tay Tnú là bàn tay tín nghĩa, không biết bội phản. Cũng là một bàn tay chỉ đường. “Lưng Tnú ngang dọc những vết dao chém – Cộng sản đâu, chỉ ra! Tnú nói nhỏ: – Cởi trói đã, tay mới chỉ được. Chúng nói cởi trói tay, Tnú để bàn tay ấy lên bụng mình: – ở đây này!”. Lại thêm những nhát dao băm lên lưng Tnú, máu ứa đông lại, tím thâm như nhựa xà nu. Chất nhựa, chất dầu xà nu xưa nay vẫn giúp ích cho dân làng. Con người trồng cây, cây phục vụ cuộc đời. Lẽ tự nhiên thuận trời thuận đất là như vậy. Nhưng có sự can thiệp của lực lượng phản động, quy luật bị đảo ngược. Thằng Dục tẩm dầu xà nu vào giẻ rồi quấn lên mười đầu ngón tay Tnú, mười điểm chót vót, bén nhậy nhất của hệ thần kinh. Dầu xà nù bắt lửa rất nhanh. Nó châm đốt dần từng ngón tay Tnú, như muôn thong thả nhấm nháp cái thích thú đao phủ đó. “Mười ngón tay đã thành mười ngón đuôc”. Dầu xà nu rất thơm nay khét lẹt mùi thịt cháy. Thằng Dục không phải là người Mỹ, dầu xà nu không phái là xăng dầu nhập cáng, kẻ thù thâm hiểm hằng giấu bàn tay diệt chủng, dùng người của chúng ta giết chúng ta.
Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú. Nhưng mười ngọn đuốc thịt da đó đã kịp làm nổi châm ngọn lửa nối dậy. Sau tiếng thét của Tnú, dân làng bột phát giết sạch mười tên giặc… Rồi vết thương lành lại. Mỗi ngón tay cụt một đốt. Còn lại hai đôt vần có thể cầm giáo, bắn súng. Như cây xà nu bị mảnh đạn ứa nhựa tím bầm còn vương cánh đứng đó. Bàn tay không như cũ, nhận thức không thể như cũ. Tnú đã trà giá đắt nhưng có một kinh nghiệm lớn: “Chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục”. Và tình cảnh anh cũng đứng ngang tầm kinh nghiệm đó. Căm thù trong anh cháy giần giật như nhựa xà nụ bén nhạy. Có súng, anh không bắn. Có dao, anh không đàm. Những thằng Dục mờ mắt trắng dã nhìn tang chứng tội ác hiển hiện của chúng, ‘nhìn bàn tay quá báo, bàn tay cụt mười ngón đang xoè ra bóp cổ chúng, không ngờ sự trừng phạt lại đến nhanh chóng và ghê gớm như vậy.
Giọng điệu sử thi của “Rừng xà nu” bắt đầu từ câu chuyện kể của cụ Mết dưới ánh lửa xà nu, một câu chuyện, phảng phất phong vị anh hùng ca. Và cây xà nu không chỉ gắn với quá khứ, hiện tại anh hùng mà còn gắn bó với mọi sinh hoạt, phong tục và đời sống vãn hóa của người Xô-man, của các dân tộc Tây Nguyên.
Đến cuối truyện, hình ảnh cánh rừng xà nu lại trở về, “những rừng xà nu nối tiếp chạy đến tận chân trời” với “vô số những cây con đang mọc lên” bất chấp đêm qua đạn đại bác lại bắn. Ta đường như nghe thấy âm thanh của sự sống mới, một sức sống vô hạn và không gì có thể tẳn phá nổi của một dân tộc thương đau, là chiến thắng của tuổi trẻ, lời hứa hẹn của tương lai. Ta nghĩ đến Dít – một Mai khác không chi biết yêu thương mà còn biết chiến đấu bảo vệ những’gì thân yêu, Ta nghĩ đến bé Heng, rất có thể sẽ còn đi xa hơn Tnú…Cứ thế, câu chuyện nói rất nhiều đến súng, đạo, chết chóc đã khép lại trong một điệp khúc dịu dàng, ngọt nhẹ. Đó dường như là cảm xúc sử thi hoành tráng. Hoàng tráng trong hình ảnh, với vóc dáng vạm vỡ, cao cả của núi rừng Tày Nguyên, hoành tráng trong âm hưởng, với lời văn đầy âm điệu, khi vang động khi thiết tha, trang nghiêm.
- Kết bài:
Tính sử thi và cảm hứng lãng mạn trong Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành thể hiện một cách xuất sắc qua hình tượng cây xà nu, đó thật sự là một sáng tạo nghệ thuật đáng kể của nhà văn. Ông đã lựa chọn hình ảnh cây xà nu và đem lại cho nó những ý nghĩa mới những lớp ý nghĩa rất khác nhau qua cách viết vừa gợi vừa tả. Qua hình tượng này người đọc không chỉ thấy rõ sức sống kiên cường, mãnh liệt của dân làng Xô-man,của con người Tây Nguyên nói riêng mà còn là của dân tộc Việt Nam nói chung trong những tháng năm chống Mĩ.