»» Nội dung bài viết:
Kiến thức tìm hiểu bài thơ Tràng giang của Huy Cận
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả Huy Cận.
Huy Cận là một trong những tác giả tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới và của nền thơ Việt nam thế kỷ XX. Niềm ám ảnh thường trực trong thơ Huy Cận là sự hữu hạn của kiếp người trước cõi vô biên của vũ trụ. Mỗi khi đối diện với một không gian rộng lớn, mênh mang nỗi ám ảnh trên thường thăng hoa thành niềm cô đơn, sầu muộn khó hoá giải. Thơ Huy Cận thiên về suy tưởng triết lý hơn là giãi bày, bộc lộ.
2. Tác phẩm: Tràng giang.
Xuất xứ: In trong tập thơ Lửa thiêng (1940)
Hoàn cảnh sáng tác: Vào một buổi chiều mùa thu 1939, khi đứng ờ bờ Nam, bến Chèm, sông Hồng (Hà Nội) nhìn cảnh sông nước mênh mông, bốn bề bao vắng lặng, nghĩ về một kiếp người trôi nôi, vô định, Huy Cận đã cảm tác nên bài thơ này.
Thể loai: Thơ mới kết hợp Đường luật
Chủ đề: bài thơ là bức tranh tâm trạng của thi nhân với nỗi buồn mênh mang, xa vắng, cô đơn, qua đó kín đáo toát lên lòng yêu nước, yêu quê.
II. Phân tích bài thơ:
1. Âm điệu của bài thơ , ý nghĩa câu đề từ và nhan đề bài thơ:
Bài thơ được viết theo âm điệu của thể thơ thất ngôn hài hoà giữa nhịp và thanh. Nhịp thơ 2/2/3 hoặc 4/3.
Thanh điệu: dựa trên nền thanh điệu bằng/trắc của thể thơ cổ. Cách sáng tạo từ láy nguyên âm (điệp diệp, song song). Cách sắp xếp ngôn từ theo nguyên tắc song song trùng điệp (nắng xuống, trời lên, hàng nối hàng)
Âm điệu chung của bài thơ là mênh mang, xao xuyến, rong ruỗi triền miên, tựa như nhịp trôi chậm chạp vô hình của dòng thời gian. Âm điệu ấy rất phù hợp với tâm trạng buồn bã, sầu não, cô đơn, bơ vơ, hiu quạnh.
Câu thơ đề từ: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài có thể được hiểu theo hai nghĩa:
– Chủ thể là con người: con người bâng khuâng, nhớ nhung trước trời rộng, sông dài; hoặc do bâng khuâng trước trời rộng mà thấy nhớ sông dài.
– Chủ thể là tạo vật: trời rộng bâng khuâng nhớ sông dài.
Cái độc đáo của câu thơ đề từ là sự giao thoa giữa hai nghĩa. Con người nặng trĩu nhớ nhung mà sông núi đất trời cũng tràn ngập bâng khuâng.
Tựa đề gây một ấn tượng sâu sắc. Tràng giang chứ không phải trường giang hay sông dài. Nếu dùng hai tiếng nôm na thuần Việt không có được cái sắc thái trừu tượng, cổ xưa. Với âm Hán Việt, con sông tự nhiên rộng hơn, mênh mông hơn, vĩnh cửu hơn trong tâm tưởng người đọc.
2. Cảnh trời rộng sông dài và tâm trạng đìu hiu, lạc lõng (khổ 1).
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Hai câu đầu đặc tả cái mênh mang của con sông lớn:
“Sóng gọn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song… ”
Từ “tràng giang” (láy âm), với âm “ang” liên tiếp, êm êm lặng lẽ gợi xúc cảm hoài cổ, nỗi buồn triền miên. Đồng thời gợi hình ảnh một con sông dài và rộng. Từ láy “điệp điệp” vẽ nên nỗi buồn da diết. Cái buồn trong lòng lan tỏa ra theo những gọn sóng nhỏ nhấp nhô. Cũng với nỗi buồn ấy, tác giả thả trôi theo con thuyền xuôi mái lặng lẽ để lại sau lưng mình hai rẽ nước song song.
Hình ảnh đổi lập giữa sông dài trời rông và con thuyền lẻ loi gợi về hình ảnh con người nhỏ bé cô đơn trước sông nước mênh mông.
Ở hai câu thơ sau, nỗi buồn được thể hiện sâu sắc hơn:
“Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
“Thuyền về” trái ngược với “nước lại”. Lại thêm cách nói thậm xưng “sầu trăm ngã” (thậm xưng) miêu tả nỗi buồn biệt li bất tận của con người trướng quang cảnh.
Phép nhân hoá (củi lạc, nước sầu) diễn tả sinh động tâm trạng con người. Hình ảnh “củi một cành khô lạc mấy dòng” được dùng thật sáng tạo. Câu thơ vừa gợi hình, vừa gợi cảm. Hình ảnh cành củi khô trôi nổi, dập dềnh trên sóng nước đã gợi lên biết bao suy nghĩ. Nhìn đâu tác giả cũng thấy một nỗi buồn len lõi trong tâm hồn.
Một cành cùi khô đơn độc, không còn sức sống giữa bát ngát tràng giang mặc cho con sóng vô tình vùi dập, khiến nhà thơ liên tưởng về một kiếp người cô đơn, nhỏ bé, bất lực, mòn mỏi giữa sóng gió cuộc đời. Hình ảnh đối lập: một cành với mấy dòng khiến cho con người trở nên nhỏ bé trước không gian bao la, không định hướng giữa cuộc đời.
⇒ Miêu tả hiện thực bức tranh sông nước, suy nghĩ về một kiếp người vô định mong manh, khổ thơ mang hơi hướng một tứ thơ cổ nhưng được thể hiện hết sức mới mẽ, gợi lên một cách cụ thể cái tôi cô đơn của số phận con người trước thời cuộc.
3. Nỗi buồn lan tỏa trong không gian ba chiều bất tận của sông dài, trời rộng (khổ 2).
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”.
Không gian buồn như được mở ra, nỗi buồn thấm sâu vào cảnh vật. Bắt đầu từ dòng sông lan tỏa sang đôi bờ, rồi vút lên bầu trời xanh thẳm:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió dìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”
Cặp từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi sự buồn bã, quạnh vắng cô đơn. Bức tranh thiên nhiên được vẽ thêm đất, người nhưng chỉ gợi thêm không khí tàn tạ, vắng vẻ, một vùng đất heo hút, thiếu vắng cuộc sống con người.
Không gian đìu hiu, quạnh quẽ không có bóng người, không cả tiếng người từ xa vẳng lại, chỉ còn cảnh vật, đầt tròi mênh mông, xa vắng…
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót…”
Đây là những câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc. Không gian được mở rộng và đẩy cao thêm. Hình ảnh đối lập: nắng xuống với trời lên khiến không gian mở ra cả ba chiều bất tận, khiến con người rợn ngợp.
Tác giả nhìn bầu trời qua mặt nước sông Hồng. Chiều cao của đỉnh trời thành chiều sâu cùa vũ trụ. Chính chiều sâu ấy gợi được ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng. “Chót vót” khắc họa được chiều cao dường như vô tận. Càng rộng, càng cao, càng sâu thì cảnh vật càng thêm vắng lặng. Chỉ có sông dài, trời rộng, bến cô liu hòa điệu trong nỗi u buồn mênh mang, bất tận.
Nỗi buồn thấm vào không gian. Con người trở nên nhỏ bé, có phần như bất lực trước vũ trụ rộng lớn, vĩnh hằng và không thể không cảm thấy “lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian” (Hoài Thanh)
4. Cuộc đời nổi trôi vô định, kiếp người bơ vơ (khổ 3).
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Vẫn trong mạch cảm xúc được gợi ra từ hai khổ thơ đầu, nỗi buồn càng được khắc sâu qua hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh, gợi ấn tượng về sự mong manh, trôi nổi, vô định của một đời người, kiếp người.
Tính từ “mênh mông”, “lặng lẽ” gợi không khí vắng vẻ, u buồn. Điệp từ “không” nhấn mạnh thêm cảnh mênh mông buồn vẳng. Không một con đò, không một cây cầu nghĩa là hoàn toàn không có một bóng người hay một cái gì gợi sự giao tiếp hay gặp gỡ, kết nối với nhau. Toàn cảnh sông dài trời rộng, tuyệt nhiên không có bóng con người mà chi có thiên nhiên (bờ xanh) nối tiếp thiên nhiên (bãi vàng) xa vắng, hoang vu. Một bên còn đang tươi trẻ (xanh), một bên đã héo úa, tàn phai (vàng). Trong bức tranh này dường như chỉ có sự ngự trị tuyệt đối của một thiên nhiên cổ sơ, lặng lẽ. Trước một tạo vật như thế, cái tôi thi sĩ làm sao tránh khỏi cảm giác bơ vơ, lạc lỏng và tủi sầu.
5. Cảnh chiều buông xuống trên dòng sông và tâm sự nhớ nhà của tác giả (khổ 4).
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chìm nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Nhà thơ mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường mà vẫn giữ được nét riêng biệt và vẫn thể hiện khá rõ nét và độc đáo hồn thơ Huy Cận. Ở đây thiên nhiên tuy buồn nhưng thật tráng lệ:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chìm nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”.
Thời gian biến chuyển, bóng chiều buông xuống, thiên nhiên buồn nhưng cũng thật hùng vĩ. Mùa thu những đám mây trắng đùn lên trùng điệp ở phía chân trời. Ánh dương phản chiếu vào những đám mây trắng, phản chiếu lấp lánh như những núi bạc.
Trước cảnh sông nước mây trời bao la và hùng vĩ ấy, bỗng hiện lên một cánh chim bé nhỏ, chỉ cần nghiêng cánh là cả bóng chiều sa xuống. Hình ảnh cánh chim đơn lẻ giữa buổi chiều tà dễ gợi lên nỗi buồn xa vắng, cô đơn.
Hình ảnh đối lập giữa lớp lớp mây cao với chim nghiêng cánh nhó khiến cho cái vô hạn trở nên rộng lớn không cùng – cái hữu hạn nhỏ nhoi. Điều ấy cũng là tương quan giữa con người và cuộc đời. Con người thật nhỏ bé trước vũ trụ bao la,đang bơ vơ giữa dòng đời vô định.
Nhà thơ kết thúc bài thơ bằng một tứ thơ Đường mang phong vị cổ điển:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Từ láy “dợn dợn” diễn tả sự chập chờn sóng nước, gợi tâm trạng nhớ quê (bồn chồn, lo lắng, xao xuyến, bâng khuâng).
Câu thơ cuối có tứ thơ bắt nguồn từ câu thơ cổ của Thôi Hiệu:
“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”.
(Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu)
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)
Thế nhưng, hơn cả Thôi Hiệu, Huy Cận không cần khói sóng trên sông vẫn nhớ quê da diết bởi nỗi nhớ ấy quá da diết, thường trực và cháy bỏng hơn.
Với nỗi cô đơn khi đứng trước cái mênh mông của vũ trụ, con người thường có nhu cầu tìm về sưởi ấm cõi lòng trong khung cảnh quen thuộc, đầm ấm của quê hương
- Bình luận:
“Tràng giang” là một bức tranh tuyệt bích với những chi tiết chọn lọc, hình ảnh gợi cảm gây ấn tượng sâu sắc về một tâm trạng lạc lõng, cô đơn của kẻ xa xứ cố hương. “Tràng giang” mang nỗi sầu từ vạn cổ của con người nhỏ bé hữu hạn trước thời gian, không gian vô hạn của đất trời. “Tràng giang” đồng thời thể hiện nỗi buồn thế hệ của một cái tôi thơ Mới thời mất nước chưa tìm thấy lối ra.
Ở “Tràng giang” ta bắt gặp hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ (tràng giang, bờ bãi đìu hiu, cánh chim trong bóng chiều, khói hoàng hôn…). Nhiều hình ảnh, tứ thơ được gợi lên từ thơ cổ (lớp lớp mây cao…). Mặt khác, “Tràng giang” cũng không thiếu những hình ảnh, âm thanh chân thực của đời thường, không ước lệ (củi khô, tiếng vãn chợ chiều…).“Tràng giang” mang đậm phong vị cổ điển qua việc vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ bảy chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng đối, bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi nhiều hơn tả, những từ Hán Việt cổ.
Song “Tràng giang” lại cũng rất mới qua xu hướng bày trực tiếp cái tôi trữ tình (buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhá) qua những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn cảm xúc cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm thân mật, dợn dợn).
“Tràng giang” của Huy cận không chỉ là một bức tranh phong cảnh mà còn là một bài thơ về tâm hồn. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, trước cuộc đời, luôn luôn khao khát hoà hợp cảm thông trong tình đất nước, tình nhân loại.
Từ đề tài, cảm hứng, chất liệu đến giọng điệu, bút pháp, “Tràng giang” vừa mang phong vị thi ca cổ điển, vừa mang chất liệu hiện đại của thơ. Vẻ đẹp ấy cũng là nét đặc trưng của phong cách Huy Cận.
“Tràng giang” là bài thơ tuyệt bút tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận thời tiền chiến. Các chi tiết nghệ thuật được chọn lọc tinh tế. Ngôn ngữ hàm súc cổ điển. Cảnh đẹp mà buồn. Cành củi khô, bèo dạt… đầy ám ảnh, mở ra một liên tưởng đầy màu sắc suy tưởng. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của khách li hương tạo nên chất thơ, hồn thơ đẹp, để “tràng giang” thấm sâu vào lòng người, trở thành “nột bài thơ ca hát non sông, đất nước” như Xuân Diệu nhận xét.
III. Tổng kết::
1. Giá trị nội dung:
– Bức tranh Tràng Giang hiện lên với tất cả sự đối lập, tương phản giữa thiên nhiên, không gian vũ trụ mênh mông với sự sống nhỏ bé đơn chiếc, lạc lõng, mong manh…( không gian với 2 sắc thái rõ nét: mênh mông vô biên và hoang sơ hiu quạnh)
– Thể hiện nỗi cô đơn, nỗi sầu vô tận của kẻ lữ thứ- cái “Tôi” bơ vơ trước thiên nhiên vũ trụ rộng lớn, bao la, mênh mông rợn ngợp.
=> Thể hiện niềm khát khao hòa hợp giữa những con người và tình yêu quê hương đất nước kín đáo của nhà thơ.( Con người sống trên quê hương mà vẫn thấy thiếu quê hương, thấy bơ vơ ngay trên quê hương của mình. Cho nên ẩn trong nỗi bơ vơ của một cá thể trước trời đất vũ trụ là nỗi bơ vơ của một người dân mất nước và thiết tha với tạo vật ở đây cũng chính là thiết tha với chính giang sơn tổ quốc mình. …)
2. Giá trị nghệ thuật:
– Bài thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố cổ điển, nhất là yếu tố Đường thi với yếu tố thơ mới.
– Nhiều yếu tố hiện đại thể hiện “tinh thần Thơ mới” và sự sáng tạo mới mẻ của Huy Cận:
+ Một cái “Tôi” thơ mới lãng mạn, giàu cảm xúc trước tạo vật
+ Hình ảnh sinh động, cảm giác tinh vi phong phú, nhiều sáng tạo bất ngờ: sâu chót vót, củi một cành khô, chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa, nước sầu trăm ngả…⇒ tả thực giàu sức gợi: thiên nhiên sống động, sắc nét)
+ Đặc biệt chất Đường thi thấm đượm: từ thể thơ, thi đề (Viết về tạo vật thiên nhiên cổ kính, hoang sơ, với tầm vóc mênh mang, vô biên, nhất là thi đề “cao sơn, lưu thủy”) , thi tứ (Tạo ra một hình tượng nghệ thuật lẻ loi, bơ vơ trước tạo vật vô cùng hoặc mất hút giữa thiên nhiên vô tận), thi liệu đến những thủ pháp nghệ thuật đặc trưng( phép đối ngẫu, từ láy dùng theo lối song đối, tạo từ theo p/c cổ điển “bến cô liêu”..).
– Vẻ đẹp cổ điển thể hiện trên nhiều phương diện: mỗi dòng 7 chữ ngắt nhịp đều đặn, mỗi khổi 4 dòng, tách ra như bài thơ tứ tuyệt; cách thức miêu tả thiên nhiên theo bút pháp hội họa cổ điển: một vài nét đơn sơ nhưng ghi được hồn tạo vật; tả cảnh ngụ tình; sự trang nhã, thanh thoát từ hình ảnh, ngôn từ
– Chất hiện đại thể hiện trong cách cảm nhận sự việc, tâm trạng bơ vơ, buồn bã phổ biến của cái tôi lãng mạn đương thời.