»» Nội dung bài viết:
Soạn bài: Tri thức ngữ văn bài 3: Hồn nước nằm trong tiếng mẹ cha – Ngữ văn 9, Kết nối tri thức
1. Truyện thơ Nôm
– Truyện thơ Nôm là thể loại tự sự bằng thơ, được viết bằng chữ Nôm; hình thành vào khoảng thế kỉ XVI – XVII, phát triển mạnh và đạt được nhiều thành tựu to lớn vào cuối thế kỉ XVII và nửa đầu thế kỉ XIX. Ở giai đoạn đầu, một số truyện thơ Nôm được sáng tác bằng thể thơ Đường luật hoặc song thất lục bát; sau đó các tác giả chủ yếu sử dụng thể thơ lục bát.
– Truyện thơ Nôm có đề tài, chủ đề rộng mở, phong phú, giàu cảm hứng nhân đạo và có giá trị hiện thực sâu sắc. Cốt truyện của truyện thơ Nôm thường được triển khai theo trình tự thời gian với mô hình cơ bản: gặp gỡ – chia li – đoàn tụ. Khi tiếp thu nguồn cốt truyện từ văn học dân gian hoặc văn học Trung Quốc, các tác giả truyện thơ Nôm đã có những đóng góp riêng. Một số truyện thơ Nôm lấy đề tài từ đời sống thực tế và có cốt truyện do tác giả tự sáng tạo.
– Nhân vật chính trong truyện thơ Nôm là những cô gái, chàng trai có vẻ đẹp toàn diện (hình thể, tâm hồn, đức hạnh, trí tuệ, tài năng…) nhưng cuộc sống thường gặp nhiều trắc trở, gian nan. Những gian nan, trắc trở ấy không chỉ phản ánh thực trạng xã hội đương thời mà còn là cái “nền” để các tác giả làm nổi bật vẻ đẹp của con người, đặc biệt là người phụ nữ (hiếu thảo, thủy chung, giàu lòng nhân hậu, đức hi sinh, dung cảm, mạnh mẽ, kiên cường đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc, giữ gìn phẩm giá). Nhiều nhân vậy đươc khắc họa ở cả hai phương diện: con người bên ngoài (ngoại hình, lời nói, cử chỉ, hành động…) và con người bên trong (cảm xúc, suy nghĩ, diễn biến tâm lí…). Đặc biệt, lời thoại của nhân vật đã được chú ý ở cả hai hình thức: đối thoại và độc thoại. Trong một số tác phẩm, lời thoại đã được cá thể hóa và trở thành phương tiện thể hiện tính cách nhân vật. Nhiều tác giả truyện Thơ Nôm đã sử dụng thành công bút pháp tả cảnh ngụ tình để thể hiện thế giới nội tâm nhân vật.
– Truyện thơ Nôm là thể loại có đóng góp to lớn vào việc phát triển ngôn ngữ văn học và thể thơ lục bát của dân tộc. Trong các tác phẩm đỉnh cao, ngôn ngữ truyện thơ Nôm giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân, được “tinh chế” bởi ngòi bút tài hoa, điêu luyện của tác giả; thể thơ lục bát được hoàn thiện và đạt tới sự nhuần nhuyễn, không chỉ có khả năng biểu đạt mọi cung bậc tình cảm tinh tế của con người mà còn đảm nhận xuất sắc chức năng kể chuyện.
2. Lời đối thoại và lời độc thoại trong văn bản truyện
– Lời đối thoại là hình thức thể hiện của lời nhân vật khi đối tượng hướng đến là một hoặc nhiều người tham gia giao tiếp trực tiếp.
– Lời độc thoại là hình thức thể hiện của lời nhân vật, khi đối tượng hướng đến không phải là người tham gia đối thoại trực tiếp. Trong kịch, độc thoại được sử dụng để nhân vật tự nói với chính mình, khản giả chỉ là người ‘nghe trộm”, nhờ đó biết được những cảm xúc sâu kín của nhân vật. Trong truyện (bao gồm truyện thơ), đặc biệt là trong truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại, độc thoại được sử dụng để tái hiện tiếng nói nội tâm hay trạng thái cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật. Lúc này, độc thoại được gọi bằng thuật ngữ là độc thoại nội tâm.
3. Chữ Nôm và chữ quốc ngữ
– Chữ Nôm: chữ viết cổ dùng để ghi âm tiếng Việt, được công cha ta sáng tạo dựa theo kí hiệu văn tự Hán. Chữ Nôm được hình thành vào khoảng thế kỉ X và đã được sử dụng để sáng tác thơ văn khoảng từ thế kỉ XII – XIII. Sự ra đời của chữ Nôm thể hiện tinh thần tự cường, tự tôn dân tộc; đánh dấu bước phát triển vượt bậc về văn hóa và khẳng định vị trí, vai trò của tiếng Việt. Nhiều tác giả đã sử dụng chữ Nôm để sáng tạo nên những tác phẩm kiệt xuất, xây dựng những thể loại đặc sắc cho nền văn học trung đại Việt Nam: thơ Nôm Đường luật (Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bà Huyện Thanh Quan, Trần Tế Xương…); truyện thơ Nôm (Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Phạm Thái…); ngâm khúc (Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Cao Bá Nhạ…); hát nói (Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh,…). Hàn Thuyên dược cho là người có công đầu tiên trong việc phát triển, phổ biến chữ Nôm.
– Chữ quốc ngữ: chữ viết dùng chữ cái La-tinh để ghi âm tiếng Việt. Chữ quốc ngữ được hình thành từ đầu thế kỉ XVII, trong quá trình các tu sĩ Dòng Tên truyền đạo Thiên Chúa tại Việt Nam. Trong đó, những người có công lớn nhất là giáo sĩ Phran-xít-cxô đờ Pi-na và giáo sĩ A-lếch-xăng-đờ Rốt. Nhiều trí thức người Việt đã có đóng góp quan trọng trong việc truyền bá, phổ biến chữ quốc ngữ thời kì đầu như: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của… Sau khi ra đời, chữ quốc ngữ được chỉnh lí, thay thế dần chữ Hán và chữ Nôm; đến đầu thế kỉ XX, trở thành văn tự chính thức của quốc gia.