»» Nội dung bài viết:
Tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” trong đoạn trích “Đất nước” (trích “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm
- Mở bài:
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông giản dị, giàu chất suy tư. Nguyễn Khoa Điềm đã dành những trang viết đẹp nhất ca ngợi và cổ vũ ý chí ra trận của dân tộc. Mỗi tác phẩm là đều tiếng còi xung trận. Trường ca “Mặt đường khát vọng” là tác phẩm xuất sắc, có những khám phá độc đáo về hình ảnh đất nước và cái nhìn của thời đại. Độc đáo và mới mẻ nhất ở đọa trích “Đất nước” (trích trường ca “Mặt đường khát vọng”) đó là tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.
- Thân bài:
Trường ca “Mặt đường khát vọng” được viết tại khu sáng tác Trị Thiên – Huế tháng 10 năm 1971. Đất nước đã trở thành một bài thơ có sức sống độc lập, thể hiện trọn vẹn tài năng phong cách Nguyễn Khoa Điềm. Cùng với “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm trở thành hai áng thơ đẹp nhất viết về Tổ quốc của văn học Việt Nam hiện đại.
Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, yêu nước không đơn giản chỉ là nhiệt tình hăng hái chiến đấu và căm thù giặc mạnh mẽ. Với Nguyễn Khoa Điềm tình yêu đất nước làm sống dậy trong trang thơ lịch sử bốn ngàn năm hào hùng của dân tộc với những chiến công dựng nước và giữ nước của cha ông. Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự đồng hiện của những gì gần gũi nhất, thân thương nhất của mỗi con người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai, trong thời gian và không gian, trong lịch sử và truyền thống văn hoá…
Ở Nguyễn Khoa Điềm lòng yêu nước là hồn Việt thấm đượm trong tâm hồn để từ đó đúc kết một chân lý vững vàng: Đất nước của nhân dân. Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối hầu hết các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Vì vậy tiếng thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ nói lên những suy nghĩ cảm nhận của tuổi trẻ trong chiến tranh, về sự lạc quan hay cái nhìn nghiêm túc thành thật, thậm chí trần trụi về những mất mát… mà còn bộc lộ những suy nghĩ hiện thực sâu sắc hơn rất nhiều.
Có thể nói cảm hứng Đất nước ôm trùm chi phối trọn vẹn nền văn học kháng chiến chống Mỹ. Trong chiến tranh, cảm hứng Đất nước đi liền với khát vọng gìn giữ chủ quyền dân tộc chiến thắng kẻ thù xâm lược. Chủ đề này được Nguyễn Khoa Điềm triển khai trong thơ bằng không khí sử thi hào hùng của cuộc chiến đấu chống Mỹ.
Để tái hiện tinh thần thời đại, thơ Nguyễn Khoa Điềm phơi bày những cảm xúc nồng nàn bay bổng trước vận mệnh chung của toàn dân tộc. Trong thơ Nguyễn Khoa Điềm cảm hứng sử thi anh hùng bao giờ cũng đi cùng cảm hứng lãng mạn và lí tưởng hoá tạo nên những hình ảnh thơ kì vĩ hùng tráng. Cảm hứng sử thi bao giờ cũng song hành với chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. Cảm hứng sử thi là cảm xúc cao trào, dâng tràn lòng yêu nước, tự hào trước sự quật khởi của đất nước.
Trong tâm thức Nguyễn Khoa Điềm luôn quan niệm chính Nhân dân vô danh đã làm nên đất nước. Có lẽ vì vậy mà chủ nghĩa anh hùng trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không xuất hiện những tên tuổi vang dội mà nhà thơ thường chú ý khai thác chất anh hùng trong những biểu hiện hàng ngày của cuộc chiến đấu ác liệt với những con người bình dị.
Ở phương diện chiếm lĩnh hiện thực chiến trường, thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hòa vào dàn đồng ca hào hùng của thơ trẻ chống Mỹ. Nếu như trong âm hưởng chung người ta có thể nhận ra những giọng điệu riêng biệt: Hoàng Nhuận Cầm hồn nhiên mơ mộng; Phạm Tiến Duật hóm hỉnh tinh nghịch pha chút ngang tàng; Dương Hương Ly khoẻ khoắn thiên về ngợi ca; Bằng Việt sâu lắng và trong sáng…thì thơ Nguyễn Khoa Điềm là thứ thơ đằm sâu mà ngân vang. Độ sâu sắc của thơ Nguyễn Khoa Điềm phần nào nổi trội hơn nhiều tác giả trẻ khác chính là ở sự thể hiện phong phú và xúc động một chủ đề, một tư tưởng: Đất nước của nhân dân được soi chiếu từ góc nhìn lịch sử – văn hóa và thông qua những trải nghiệm của chính nhà thơ.
Nguyễn Khoa Điềm có một vốn tích luỹ phong phú về nền văn hóa dân tộc. Bước vào cuộc chiến tranh, sự tàn khốc dường như càng thôi thúc nhà thơ suy nghĩ nhiều hơn, sâu hơn về đất nước để có những phát hiện tinh tế có khả năng làm sống dậy những hình ảnh đẹp của văn hóa dân tộc. Khi được hỏi về những sáng tác trong chiến tranh, Nguyễn Khoa Điềm đã tâm sự: “Chúng tôi là những tri thức trưởng thành qua chiến tranh. Chúng tôi phải huy động hết những phần văn hóa của mình để chứng minh sức mạnh của mình, khả năng tồn tại của mình, chứng minh mình là con người, lớp người có văn hóa. Chính bởi thế mà trong không khí sặc mùi thuốc súng ấy, giữa cái giáp ranh của sự sống và cái chết, tôi muốn đưa vào thơ những hình ảnh đậm nét văn hóa nhất của quê hương đất nước mình”.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta là một bản trường ca vĩ đại, hào hùng. Để phản ánh hết không khí hào hùng đó, người viết phải lựa chọn cho mình một hình thức biểu đạt sao cho phù hợp nhất nhưng lại có dấu ấn phong cách riêng. Trước yêu cầu đó, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm cho mình một cách đi riêng.
Khái quát những chủ đề về nhân dân, đất nước, về cách mạng, nhà thơ đã kết hợp chất liệu truyền thống và hiện đại, trên cơ sở vận dụng những hiểu biết về địa lí, phong tục tập quán của nhân dân, đất nước. Để phản ánh hết được cái hào hùng của thời đại, nhiều nhà thơ thời kì này đều sử dụng thể trường ca – một thể loại thể hiện được những sự kiện, biến cố lớn của dân tộc. Nếu trường ca Nguyễn Văn Trỗi của Lê Anh Xuân là một tình khúc ca được thể hiện qua thơ lục bát thật dịu dàng đằm thắm; “Bài ca chim chơ rao” của Thu Bồn lãng mạn, phóng khoáng và bay bổng thì trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi nổi nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi trẻ xuống đường tranh đấu. Trong đó những trang thơ khắc hình Đất nước là những nốt nhạc rung động lòng người, được toả sáng dưới một cái nhìn mới mẻ đầy tính phát hiện.
Xuyên suốt chương Đất nước là tư tưởng “Đất nước của nhân dân” nhuần nhuỵ trong hình thức “Đất nước của ca dao thần thoại” như một sợi chỉ đỏ tạo nên mạch chảy đằm sâu, tha thiết trong xúc cảm của nhà thơ. Nó như là một bản nhạc với đầy đủ những âm vực cao độ xen kẽ nhau, hoà quyện vào nhau tạo nên sự hấp dẫn lôi cuốn người đọc.
Thơ Nguyễn Khoa Điềm khi viết về đề tài Đất nước, Nhân dân, giọng thơ đầy xúc cảm, trang trọng khi hát khúc hát sử thi hoành tráng về Nhân dân, Đất nước. Trọng tâm của bản trường ca nằm ở chương Đất nước, tập trung và thăng hoa những suy nghĩ sâu xa nhất của nhà thơ những năm tháng chiến tranh. Đất nước được tái hiện trong những hình ảnh thân thiết với mỗi con người, Đất nước cũng được đặt trong cái nhìn lịch sử và văn hóa trong “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông” để mỗi người cảm nhận hết tầm cao cả thiêng liêng của hai từ Đất nước.
Cảm quan lịch sử – văn hóa sâu sắc đã tạo nên một chiều sâu riêng, sức hấp dẫn khơi gợi đặc biệt của chương Đất nước. Chương này là điểm hội tụ và tỏa sáng toàn bộ bản trường ca, tạo nên một vẻ đẹp độc đáo khác biệt so với những trường ca cùng thời. Để tái hiện quá trình bắt đầu và lớn lên của Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã làm sống dậy cả một không gian văn hóa cổ xưa của dân tộc, trong bề dày lịch sử bốn nghìn năm.
Bề dày lịch sử ấy chứa đựng cả chiều sâu của một nền văn hoá phong phú, lâu đời, đầy nhân hậu với cả một truyền thống quý báu của dân tộc: cần cù, chịu khó trong học tập, làm ăn, dũng cảm trong chiến đấu, chung thuỷ bền vững trong tình yêu. Người đọc gặp ở chương Đất nước thế giới của truyện cổ, kho tàng của ca dao… Lời kể ngày xửa ngày xưa của mẹ mở ra xứ sở cổ tích thần kì; miếng trầu của bà gợi câu chuyện Trầu cau, với tình người nồng hậu, thuỷ chung, biểu tượng đạo lí sáng đẹp yêu thương của dân tộc; luỹ tre xanh gợi truyền thuyết Thánh Gióng, như khúc anh hùng ca tráng lệ về sức mạnh thần kì của nhân dân Việt Nam từ buổi bình minh non trẻ dựng nước và giữ nước, và hình ảnh “gừng cay muối mặn” nghĩa tình đằm thắm trong ca dao.
Đất nước được gợi lại từ lịch sử, được sống dậy qua phong tục tập quán trong đời sống tinh thần của nhân dân: miếng trầu,trồng tre, bới tóc sau đầu, cách đặt tên người, cả tình yêu của con người…Tất cả đều làm nên khuôn mặt dân tộc – một dân tộc nghĩa tình đằm thắm. Chất dân gian, hồn dân tộc như thấm vào từng câu từng chữ.
Đất nước bắt nguồn từ những cái hàng ngày gần gũi, cũng lại là những cái bền vững sâu xa hình thành tồn tại từ ngàn xưa trong đời sống dân tộc, từ những phong tục tập quán được tiếp nối thiêng liêng, qua nhiều thế hệ. Đó chính là chiều sâu văn hóa – lịch sử của đất nước, nó góp phần khẳng định Đất nước có từ xa xưa, từ khởi thuỷ của dân tộc khi những cư dân đầu tiên khai phá đất đai lập nên xứ sở.
Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước được hình thành từ sự hội tụ của hai yếu tố Đất và Nước. Hai yếu tố này kết hợp với nhau để rồi từ đó sinh thành nên cơ thể đất đai, nước non, xứ sở. Những năm chiến tranh, đến với ngọn nguồn Hương Giang, Nguyễn Khoa Điềm đã từng suy ngẫm về cội nguồn Đất Nước:
Một cái gì rả rích
Dưới mấy cội kền kền
Như là đất và nước
Ru lời ru đầu tiên
(Bạn ơi, bạn có nhớ)
Trong chương Đất nước của trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm cũng suy cảm về lãnh thổ bắt đầu từ hai yếu tố ấy:
Đất là nơi em đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi
Đất là nơi chim về
Nước là nơi rồng ở.
Đoạn thơ thể hiện lối tư duy vừa giàu chất trữ tình thi ca vừa mang tính huyền thoại vừa thấm đượm phong vị triết học. Hai yếu tố Đất và Nước được nhà thơ soi chiếu trong mối quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện tại. Đất nước là mảnh đất quen thuộc gắn bó với mỗi con người, đất nước thân thương như mái trường ta học, như dòng sông em tắm, như góc phố , đình làng, ao sen, lũy tre, cây đa, bến nước nơi lứa đôi hò hẹn, một không gian nhỏ chỉ hai người biết, hai người hay, rất riêng tư nhưng cũng đậm hồn quê hương xứ sở.
Đất nước còn là núi sông dài, rừng rậm, biển cả bao la, là không gian sinh tồn và phát triển của bao thế hệ người Việt. Trải qua thời gian, Đất nước trở thành một giá trị lâu bền, vĩnh hằng và được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” như một cảm quan lịch sử chủ đạo của Nguyễn Khoa Điềm, chi phối cái nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử của đất nước, được gìn giữ và kiến tạo bằng máu và mồ hôi của những con người bình dị không tên tuổi. Lịch sử ấy được kết thành từ bao thế hệ, bao số phận: những người vợ nhớ chồng ra trận, từ anh học trò nghèo, những con gà con cóc nhỏ bé, đến gót ngựa Thánh Gióng, 99 con voi chầu đất Tổ Hùng Vương…
Mỗi người, mỗi vật đi qua trong lịch sử, trong không gian, thời gian đều để lại một chút gì cho đất nước. Đó chính là nhân dân, bằng những cuộc đời thầm lặng, vô danh đã kiến tạo nên giá trị vĩ đại và trường tồn, đó là Đất nước:
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước
Với cái nhìn xuyên suốt lịch sử, tác giả nhấn mạnh vai trò của nhân dân. Nhân dân bắng máu xương của mình đã chiến đấu bảo vệ gìn giữ Đất nước. Đất nước – đó là sự hóa thân của lịch sử, của bao thế hệ đem máu xương gìn giữ:
Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
(Mặt đường khát vọng)
Vượt qua thời gian đằng đẵng, nhìn xa vào bốn ngàn năm đất nước, lịch sử hào hùng của đất nước như sống dậy. Nhìn lại lịch sử dài lâu của đất nước, chúng ta thường khắc ghi các triều đại nổi danh, ngợi ca những anh hùng nổi tiếng trong trang sử vàng của dân tộc. Nhưng cảm quan “Đất Nước của Nhân dân” đã chi phối cái nhìn lịch sử của nhà thơ: nhân dân là người sáng tạo ra đất nước, chiến đấu bảo vệ đất nước.
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Những cụm từ lấy ra trong ca dao, tục ngữ: “nuôi cái cùng con”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” tạo cho lời thơ sự nhuần nhụy hòa quyện rất gợi cảm. Cũng trong dòng cảm xúc mãnh liệt về nhân dân đất nước nhà thơ Nam Hà viết:
Đất nước
Của thơ ca
Của bốn mùa hoa nở
Đọc trang Kiều tưởng câu hát dân gian
Nghe xôn xao trong gió nội mây ngàn.
Đất nước
Của những dòng sông
Gọi tên nghe mát rượi tâm hồn
Ngọt lịm, những giọng hò xứ sở
Trong sáng như trời xanh, mượt mà như nhung lụa
Đất nước
Của những người mẹ
Mặc áo thay vai
Hạt lúa củ khoai
Bền bỉ nuôi con, nuôi chồng chiến đấu.
Đất nước
Của những người con gái, con trai
Đẹp như hoa hồng, cứng như sắt thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt
Nốt nhấn của khúc ca ca ngợi nhân dân chính là điểm sáng ngời trong phẩm chất nhân dân:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ dã làm ra Đất Nước.
Nhân dân trong quan niệm Nguyễn Khoa Điềm, là tập thể những người anh hùng vô danh. Họ sống giản dị, chết bình tâm, chiến đấu không phải để mang tên cho lịch sử mà vì một lẽ thiêng liêng, bình dị và cao cả: bảo vệ đất nước. Câu thơ ngắn, cô đúc nhưng lại chính là sự dồn nén của cảm xúc tác ấn chứa biết bao xúc động chân thành trước những hi sinh thầm lặng, những đóng góp lớn lao của nhừng người vô danh, hiền lành và giản dị.
Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước còn là sự nối liền các thế hệ Việt Nam, họ đã lao động, sáng tạo, gìn giữ và truyền lại cho đời sau mọi giá trị văn hoá vật chất, tinh thần: từ hạt lúa với nền văn minh lúa nước, ngọn lửa được tạo nên bởi bước tiến của loài người đến những của cải tinh thần quý báu như phong tục tập quán lâu đời: tên xã, tên làng, giọng nói cha ông…Họ là những anh hùng văn hoá, họ đã bảo tồn từ đời này sang đời khác phong tục và lối sống của dân tộc mình:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than con cúi
Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân.
Đất nước cũng chính là phần tâm linh ngay trong máu thịt mỗi con người:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước.
Giọng thơ đặc biệt xúc cảm của những người cùng thế hệ, thông qua giọng ân tình nhắn nhủ của tình yêu, của anh và của em, Nguyễn Khoa Điềm nói lên được sự thống nhất, gắn bó giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và dân tộc. Trách nhiệm và bổn phận đối với đất nước chính là trách nhiệm đối với bản thân mình
Em ơi em Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất nước muôn đời
Câu thơ dù là hình thức mệnh lệnh: Phải biết, phải biết…, nhưng với giọng điệu thiết tha, với cảm xúc mãnh liệt bật lên tự trái tim, từ sự cảm hiểu sâu sắc về đất nước, điệu thơ có sức cuốn hút thôi thúc mạnh mẽ, tác động đến tâm hồn và trí tuệ người đọc. Mỗi con người gắn bó máu thịt với đất nước nên phải biết bảo vệ, giữ gìn đất nước, hơn nữa phải hi sinh vì đất nước khi vận mệnh dân tộc lâm nguy.
Trong hoàn cảnh đất nước đang gồng mình dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, những vần thơ cùa Nguyễn Khoa Điềm càng có sức lay động sâu xa lòng người, khơi dậy trong mỗi người ngọn lửa yêu thương, chiến đấu, hi sinh. Bởi trách nhiệm với đất nước chính là trách nhiệm với chính bản thân mình. Những câu thơ chính trị mà không khô khan chính vì “phát khởi tự trong lòng’’ thi nhân, thấm nhuần cảm xúc dạt dào hứng khởi và nói với ta biết bao điều thiêng liêng về đất nước, về trách nhiệm bản thân đối với đất nước.
Cũng trong dòng cảm xúc ấy Chế Lan Viên đã viết
Ôi Tổ quốc , ta yêu như máu thịt,
Như mẹ cha ta, như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…
Đoạn thơ trích trong chương V, giàu chất trữ tình chính luận, vừa được viết bằng chiều sâu trí tuệ, chiều cao văn hóa, vừa được viết bằng những rung động mãnh liệt của cảm xúc nên rất dễ đi vào lòng người. Lời thơ đậm đà chất liệu văn hóa văn học dân gian, được lấy cảm hứng từ ca dao, dân ca, cổ tích, truyền thuyết nên đậm đà sắc thái dân tộc, mở ra một đất nước thơ mộng trữ tình từ xa xưa vọng về gần gũi, thân thương. Đặc biệt, chương thơ rất ít vần, nó có chất thơ là nhờ vào việc xây dựng hình ảnh, giọng điệu thơ trầm bổng thiết tha, mang âm hưởng của ca dao, dân ca. Tất cả làm toát lên vẻ đẹp của Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao, thần thoại mà Nguyễn Khoa Diềm đã ký gửi trong từng câu thơ.
- Kết bài:
Bằng cách đề cao vai trò của nhân dân lao động với đất nước, Nguyễn Khoa Điềm một lần nữa làm rõ tư tưởng Đất nước của nhân dân, khẳng định vai trò và sức mạnh của nhân dân đối với lịch sử và đất nước. Đó là cả một truyền thống lâu dài trong lịch sử văn học dân tộc. Tác phẩm đã tạo nên những rung động âm vang trong lòng người đọc chính là nhờ những cảm xúc chân thành từ sự trải nghiệm của bản thân mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thể hệ đối với đất nước. Nguyễn khoa Điềm đã góp thêm một thành công cho dòng thi ca về đất nước, làm sâu sắc thêm những nhận thức về đất nước và nhân dân bằng tiếng nói nghệ thuật đậm đã chất dân gian.
Tham khảo:
Bàn về chương “Đất nước” trích từ “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, có ý kiến cho rằng: “Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca này”.
Từ cảm nhận của mình về đoạn trích “Đất nước”, anh/chị hãy bình luận về ý kiến trên.
- Mở bài:
Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Thơ nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng. Đất nước nhân dân là một nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm.
- Thân bài:
– “Đất Nước của Nhân dân”: nhằm đề cao vai trò to lớn của nhân dân- người kiến tạo dựng xây, bảo vệ đất nước. Nhân dân chính là chủ thể của đất nước để “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”.
– “Đất Nước của ca dao thần thoại”: ca dao, thần thoại là 2 thể loại tiêu biểu, đặc trưng nhất trong kho tàng văn học dân gian, kết tinh lưu giữ vẻ đẹp tâm hồn dân tộc, gợi mở một thế giới bay bổng lãng mạn huyền thoại. Tác giả của “ca dao thần thoại” chính là nhân dân. Khi nói “Đất Nước của ca dao thần thoại” là tác giả muốn khẳng định: Đất Nước của Nhân dân còn là đất nước của văn hóa dân gian.
Ý kiến trên muốn khẳng định: Nhân dân là chủ thể của Đất Nước và Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chính chất liệu của văn hoá văn học dân gian đó để thể hiện ý tưởng độc đáo mới mẻ của mình khi cảm nhận về đất nước
Tư tưởng đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại thấm nhuần trong nội dung của đoạn trích. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” được nhà thơ thể hiện cụ thể sinh động và được triển khai trên nhiều bình diện: trong “thời gian đằng đẵng”, trong “không gian mênh mông” và từ bề dày truyền thống văn hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc, để rồi tác giả đi cắt nghĩa cho câu hỏi ai làm nên đất nước và đó chính là nhân dân.
Nhân dân đặt tên cho các danh thắng, tên đất, tên làng để rồi nhân dân thả hồn vào sông núi. Tác gia liệt kê một loạt các danh thắng từ Bắc vào Nam đều trong sự gắn bó với nhân dân biết bao thế hệ. Sau mỗi hình thể của sông núi là hình ảnh của cuộc đời, là ước nguyện của nhân dân: núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút non Nghiên…
Nhân dân làm nên lịch sử bốn nghìn năm. Nhân dân chính những người dân bình dị sinh ra lớn lên, lao động và chiến đấu, “khi có giặc người con trai ra trận”, “người con gái trở về nuôi cái cùng con”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”… Họ là những anh hùng vô danh không ai nhớ mặt đặt tên, sống “giản dị” chết “bình tâm”, hi sinh thầm lặng cho đất nước.
Nhân dân là chủ thế sáng tạo ra văn hóa để truyền lại cho thế hệ mai sau bao gồm các giá trị tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa ngọn lửa tiếng nói, tên xã tên làng, đến những truyện thần thoại, câu ca dao, tục ngữ. Nhân dân là anh hùng văn hóa đã làm nên đất nước.
Tư tưởng đất nước của nhân dân thấm nhuần trong hình thức thể hiện. Chất liệu của “ca dao thần thoại” được Nguyễn Khoa Điềm sử dụng một cách đậm đặc, sáng tạo và vô cùng hiệu quả khi nói về nhân dân- chủ thể đất nước. Cả đoạn trích “Đất nước” như được bao bọc bởi không khí của văn hoá dân gian. Cách sử dụng cũng rất linh hoạt, sáng tạo, tác giả thường gợi ra bằng một vài chữ của câu ca dao, hay một hình ảnh, một chi tiết trong truyền thuyết cổ tích, khi trích dẫn nguyên văn, khi tái tạo trong một cảm xúc mới.
Vốn ca dao dân ca, tục ngữ được tác giả vận dụng bằng cách gợi ra bằng một vài chữ của câu ca, cũng có khi dẫn ra cả câu (“cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, “ yêu em từ thuở trong nôi”,…)
Thần thoại, truyền thuyết, cổ tích từ xa xưa: truyền thuyết về Hùng Vương, truyện cổ Trầu cau, Sự tích hòn Vọng Phu, hòn Trống Mái… Phong tục tập quán, lối sống, vật dụng dân gian như: miếng trầu; bới tóc sau đầu; cái kèo cái cột; hạt gạo xay, giã, dần, sàng, hòn than, con cúi,…
Những dụng công nghệ thuật ấy đã tạo nên 1 không gian nghệ thuật rất riêng vừa bình dị gần gũi hiện thực vừa bay bổng lãng mạn huyền thoại giàu chất thơ gợi lên được hồn thiêng của non sông, đất nước. Cách nói gần giũ với dân gian giúp nhà thơ thể hiện thành công ý tưởng Đất nước của nhân dân một cách thuyết phục bởi đã dùng chính chất liệu của nhân dân để nói về nhân dân.
Ý kiến trên đúng đắn sâu sắc. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca. Đúng vì trong quan niệm, nhận thức và cảm xúc đều thấm nhuần tư tưởng nhân dân làm nên đất nước-nhân dân không phải ai khác mà là những người vô danh đã kiến tạo bảo vệ, giữ gìn đất nước, đã dựng xây nên những truyền thống văn hoá, lịch sử ngàn đời của dân tộc; trong hình thức thể hiện như hình tượng đến chi tiết đều thấm nhuần chất dân gian.
Tư tưởng này vô cùng sâu sắc mới mẻ, độc đáo: văn học trung đại quan niệm đất nước là của nhà vua, văn học hiện đại có ý tưởng đề cao vai trò của nhân dân nhưng chưa được nâng lên thành cảm hứng nghệ thuật và được lí giải 1 cách toàn diện cặn kẽ từ nhiều bình diện trong sự gắn bó với nhân dân như Nguyễn Khoa Điềm ở chương “Đất nước” này.
- Kết bài:
Ý kiến trên cô đúc được cả cảm hứng chủ đạo và đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích “Đất nước”. Ý kiến trên giúp người đọc nhận thức sâu sắc những đóng góp độc đáo mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm khi cảm nhận về đất nước, thấm thía hơn về ý tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Với đương thời, bài thơ thức tỉnh thế hệ trẻ thời đại đánh Mĩ, nhận thức rõ về đất nước nhân dân để rồi có trách nhiệm với đất nước, đứng dậy đấu tranh giành độc lập tự do. Với hôm nay, bài thơ nhắc nhở thế hệ trẻ cần biết trân trọng giá trị truyền thống, phát huy giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, có trách nhiệm với đất nước trong thời đại mới.
Tham khảo:
- Mở bài:
Nguyễn Khoa Điềm là đại diện tiêu biểu cho thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm tài hoa, uyên bác, truyền thống, hiện đại, đĩnh đạc nghiêm cẩn mà cũng rất tinh tế, trữ tình.
Đất nước là hình tượng xuyên suốt các sáng tác văn học Việt Nam những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đoạn trích Đất Nước thuộc chương V trường ca Mặt đường khát vọng thể hiện cái nhìn toàn vẹn và sâu sắc về hình tượng Đất Nước của tác giả Nguyễn Khoa Điềm. Tác phẩm ra đời năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang bước vào giai đoạn ác liệt…
- Thân bài:
1. Vẻ đẹp của Đất Nước được cảm nhận trên nhiều bình diện:
Đất nước trải dài trong chiều dài thời gian:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”… mẹ thường hay kể
Thời gian nghệ thuật mang tính chất phiếm chỉ, không xác định, huyền ảo, thời gian mang sắc màu huyền thoại. Đất Nước có từ rất lâu, rất xa trong sâu thẳm của thời gian lịch sử.
Đất nước trải rộng trong chiều rộng của không gian. Đó là không gian của núi, sông, rừng, bể: “nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, “nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”,… không gian văn hóa: nơi anh đến trường, không gian sinh hoạt đời thường, lứa đôi riêng tư: nơi em tắm, nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm… không gian sinh tồn của cộng đồng: nơi dân mình đoàn tụ…
Gắn liền với thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông ấy là hình ảnh Đất Nước cùng với bề dày truyền thống văn hóa tốt đẹp: những phong tục tập quán quen thuộc, giản dị từ bao đời, truyền thống yêu thương tình nghĩa, thủy chung son sắt, truyền thống đánh giặc và bảo vệ quê hương…
Đất nước ẩn mình trong chiều sâu của sự gắn bó thiêng liêng, máu thịt. Đất Nước là kỉ niệm bao đời của mẹ cha, là những kỉ niệm ngọt ngào của anh và em, là quá khứ – hiện tại – tương lai của mỗi người.
Đất Nước được cảm nhận từ xa đến gần, từ những gì lớn lao kì vĩ đến những điều nhỏ bé, gần gũi (câu chuyện cổ, miếng trầu, cây tre, gừng cay muối mặn, cái kèo, cái cột, hạt gạo…). Hình ảnh Đất Nước không chỉ là đối tượng để con người quan sát chiêm nghiệm mà đã được hóa thân thành một phần trong cơ thể, trong mỗi con người Việt Nam: “Trong anh và em hôm nay/ Đều có một phần Đất Nước”
2. Nét đặc sắc bao trùm toàn bộ hình tượng Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm chính là tư tưởng: “Đất Nước của nhân dân”:
Chính nhân dân – người làm nên không gian địa lí dân tộc: Nhà thơ đã có một cái nhìn khám phá đậm chất nhân văn. Những danh lam thắng cảnh của Đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà còn hình thành từ cuộc đời, số phận của nhân dân. Không gian địa lý không còn là những hình thể vật chất thuần tuý, những sự vật vô tri vô giác mà đó là dáng hình, ao ước, lối sống ông cha: Núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái: biểu trưng của đất nước tình nghĩa, Chuyện Thánh Gióng: sức mạnh bất khuất, lẽ sống anh hùng, Núi Bút Non Nghiên: truyền thống hiếu học, vượt khó, Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái: Đất nước tươi đẹp…
→ Trên không gian địa lí Đất nước, mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa được làm ra bởi sự hóa thân bao đời của tâm hồn bao con người Việt Nam. Tấm bản đồ Đất nước được phác hoạ từ Bắc vào Nam trở thành tấm bản đồ văn hoá của dân tộc, là nơi kí thác tâm hồn ước mơ, khát vọng của nhân dân.
Nhân dân cũng chính là người làm nên lịch sử, bề dày văn hoá, cốt cách tâm hồn dân tộc: 4000 năm lịch sử – nhân dân vô danh đã làm nên Đất Nước, những con người bình thường mà phi thường, giản dị mộc mạc mà cao cả kì vĩ. Những con người vô danh, giữ gìn và truyền lại cho đời sau mọi giá trị vật chất và tinh thần (hạt lúa, ngọn lửa, ngôn ngữ, phong tục tập quán). Và cũng chính Nhân dân đã tạo nền móng cho truyền thống yêu nước, luôn phát huy sẵn sàng vùng lên chống ngoại xâm, đánh quân thù để giữ gìn Đất nước: “Có biết bao người con gái con trai…làm nên Đất nước”.
→ Nguyễn Khoa Điềm không phải là người đầu tiên cảm nhận về Đất Nước bằng tư tưởng Đất Nước của nhân dân nhưng nhà thơ chính là người khẳng định tư tưởng này một cách mạnh mẽ, nâng lên thành tuyên ngôn, chân lí.
3. Nghệ thuật biểu hiện:
Nguyễn Khoa Điềm sử dụng các chất liệu văn hóa dân gian như ca dao, dân ca, truyền thuyết, cổ tích, thần thoại cùng những phong tục tập quán… tạo nên một hình ảnh Đất nước vừa giản dị, thân thiết gần gũi vừa lớn lao, thiêng liêng và mang sắc màu huyền thoại.
Giọng điệu tâm tình thủ thỉ, ngọt ngào, nhân vật trữ tình xưng anh: đây là lời của người con trai với người con gái, một người yêu với một người yêu, một người chồng với một người vợ…
Sự thay đổi kiểu câu, biến đổi giọng điệu linh hoạt làm tăng sức mạnh biểu hiện, vừa trữ tình vừa giàu chất chính luận, khái quát, trí tuệ đúng như tâm niệm của Nguyễn Khoa Điềm: “Tôi cố gắng thể hiện một hình ảnh đất nước giản dị, gần gũi nhất. Đó là cách dễ đi vào lòng người, đồng thời cũng là cách để tôi đi con đường của riêng tôi, không lặp lại người khác…”
4. Nhận xét, đánh giá:
Nét mới của Nguyễn Khoa Điềm trong suy cảm về Đất nước: không đi từ quan niệm của những nhà tư tưởng trong quá khứ mà đi từ lịch sử của nhân dân, nhân dân là chủ thể sáng tạo và gìn giữ Đất nước. Kết hợp sáng tạo những bình diện: thời gian lịch sử, không gian địa lý, bề dày văn hoá cốt cách tâm hồn dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm đã làm sáng lên tư tưởng chủ đề: “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân, Đất nước của ca dao, thần thoại”.
- Kết bài:
Đoạn trích “Đất Nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng” đã tác động mạnh mẽ vào nhận thức và tình cảm của hế hệ trẻ đương thời, hình thành ý niệm về Đất Nước, có trách nhiệm với Đất Nước và xuống đường đấu tranh hoà chung vào cuộc đấu tranh của dân tộc.
Bài tham khảo:
- Mở bài:
Chủ đề đất nước vốn được khai thác rất mạnh mẽ trong văn học và nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác từ rất lâu. Hình ảnh đất nước được nhìn nhận dưới nhiều góc độ, đa dạng và sâu sắc. Nhưng có lẽ, phải đến trường ca “Mặt đường khát vong”, văn học mới ó một cái nhìn toàn diện về đất nước và mối quan hệ giữ nhân dân và đất nước. Đất nước ấy là “đất nước của nhân dân”, do nhân dân sáng tạo, xây dựng, bảo vệ và làm chủ.
- Thân bài
Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” được thể hiện trên ba chiều cảm nhận. Đất nước được nhìn từ không gian địa lí. Nhân dân làm nên tên núi, tên sông, tên địa phương, danh lam thắng cảnh của Đất Nước. Tác giả nhìn thiên nhiên, danh lam thắng cảnh qua tâm hồn, số phận, ước vọng nhân dân. Nhân dân trao cho núi sông tình yêu, nỗi đau của mình nên mới có núi Vọng Phu, hòn Trống Mái…:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Những anh hùng hào kiệt vì đất nước mà hi sinh, làm nên những thần thoại oai hùng, lẫm liệt còn vang vọng cho đến ngày nay:
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con người bình thường lấy học thức làm nên vẻ đẹp của đất nước muôn đời:
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Nhân dân vô danh đã hóa thân vào mỗi tấc đất của quê hương để có Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…:
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm …
Cuộc đời nhân dân tạc vào núi sông, thành cốt cách, lối sống dân tộc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…
Đất nước hiện hình từ trong thời gian lịch sử. Nhân dân làm nên truyền thống anh hùng vẻ vang trong 4000 năm giữ nước. Khi nghĩ về lịch sử Đất Nước, tác giả không nhắc đến các triều đại, các anh hùng có tên tuổi mà nhấn mạnh đến những con người vô danh, bình dị là nhân dân: họ cần cù lao động xây dựng Đất Nước trong thời bình và sẵn sàng ra trận, hy sinh bảo vệ Đất Nước trong thời chiến, hóa thân vào Đất Nước muôn đời. Cảm xúc tự hào, cảm phục:
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng.
Một dân tộc anh hùng đã dệt nên những trang sử anh hùng. Lịch sử anh hùng ấy không chỉ ở chiến công chống giặc ngoại xâm mà còn ở sự nghiệp chinh phục tự nhiên, mở mang đất nước. Mỗi tất đất chứa đựng những sinh mệnh con người qua lớp lớp thời gian:
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Đất nuốc tồn tại trong bản sắc văn hóa của dân tộc từ xưa đến nay. Nhân dân tạo ra nếp sống, nếp nghĩ, bản sắc văn hóa của dân tộc:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái.
Khi đất nước lâm nguy, họ trở thành người lính đánh giặc quyết tâm gìn giữ đất mẹ thiêng liêng. Tình yêu đất nước trở thành nguồn sức mạnh phi thường, quét sạch mọi kẻ thù hung bạo:
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Tác gải nhấn mạnh vai trò quan trọng của nhân dân trong quá trình hình thành và phát triến của Đất Nước. Nhân dân đã sáng tạo, gìn giữ, truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị vật chất và tinh thần. Từ những phát hiện đó nhà thơ đi đến một định nghĩa độc đáo:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Trong muôn vàn vẻ đẹp của dân tộc, tác giả đã chọn ba nét nổi bật ấn tượng nhất được thể hiện trong ca dao để nói lên giá trị tinh thần của nhân dân. Nhân dân ta rất say đắm, thủy chung trong tình yêu “yêu em từ thuở nằm nôi..”. Nhân dân ta hết sức quý trọng tình nghĩa “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Nhân dân ta vô cùng quyết liệt trong căm thù và chiến đấu, bền bỉ kiên cường không khuất phục trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm:
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Tác giả cảm nhận, phát hiện về vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà còn là biểu tượng cho số phận, tính cách, tâm hồn con người (sự kết hợp Đất Nước – Nhân dân.
Tác giả đã khám phá vẻ đẹp tâm hồn, tính cách con người Việt Nam: Yêu thương sâu sắc, thủy chung tình nghĩa, cần cù lao động, anh hùng bất khuất, sống và hi sinh bình dị vì Đất Nước. Từ những khái quát giản dị nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định: “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”. Đó là một phát hiện mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm, đóng góp quan trọng trong nhiệm vụ khẳng định tình yêu đất nước và cổ vũ tinh thần hiến đáu bảo vệ đất nước của nhân dân ta.
- Kết bài:
“Đất Nước” là đoạn thơ trữ tình chính luận, kết hợp được cảm xúc với suy ngẫm. Đoạn thơ cho thấy sự hình thành và phát triển của đất nước luôn gắn liền với đời sống sinh hoạt của nhân dân. Việc vận dụng văn hóa dân gian trong đoạn thơ không chỉ là một thủ phấp nghệ thuật mà là sự thấm sâu quan niệm “Đất Nước của Nhân dân” vào cảm hứng sáng tạo của nhà thơ.