»» Nội dung bài viết:
Vẻ đẹp cuộc sống chiến đấu và lao động qua những tác phẩm thơ trong chương trình THCS.
“Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” (Sóng Hồng). Từ xa đến nay, thơ có mặt ở mọi nơi trong cuộc sống, ở đâu có sự sống thì ở đó có chấtư liệu thi ca. Cuộc sống với tất cả sự bề bộn của nó là những nguồn đề tài vô tận cho thơ. Và sự có mặt của thơ ca chân chính trong đời sống góp phần chứng minh sự tồn tại của con người đang luôn thiết tha đấu tranh cho một lẽ sống, một chân lí tốt đẹp. Nhưng thơ còn là tiếng nói của tâm hồn, của niềm mơ ước. Thơ luôn bộc lộ khát vọng vơn tới một lý tưởng đẹp đẽ và cao thượng. Tiếng thơ là tiếng nói của tâm hồn, là sự thôi thúc thầm kín nhưng vô cùng mãnh liệt của nội tâm. Thơ là tiếng lòng nhưng thơ cũng chính là cuộc sống. Tiếng thơ là sự thôi thúc yêu cầu của thời đại. Nhà thơ phải biết lắng nghe, quan sát, xúc động để bắt lấy tiếng nói sâu xa của cuộc sống để khơi dậy hoài bão và niềm tin tốt đẹp vào con người.
Văn học không chỉ phát triển theo qui luật nội tại của nó mà còn chịu sự chi phối của lịch sử và thời đại. Từ 1945 đến 1975 trên đất nước ta đã xảy ra nhiều biến cố tác động sâu sắc tới toàn bộ đời sống xã hội và con người. Trong suốt ba mơi năm ấy, cả dân tộc phải liên tiếp tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ xâm lợc để bảo vệ nền độc lập và thống nhất Tổ quốc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những biến cố to lớn ấy đã đa tới những biến đổi sâu rộng trong lịch sử văn hoá mở ra thời kì mới cho nền văn học dân tộc. Không còn theo nhiều khuynh hướng, nhiều trào lu khác nhau nữa mà tất cả các sáng tác văn học thời kì này đều hướng vào đời sống cách mạng, vào cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, thể hiện hình ảnh đất nước, con người Việt Nam với những nhận thức mới mẻ, với những tình cảm mới và ý thức dân tộc.
Kế thừa những truyền thống và kinh nghiệm của các thời kì trước, văn học Việt Nam 1945- 1975 đã xứng đáng với sứ mệnh cao cả của một nền văn học trong thời đại mới. Văn học đã gắn bó mật thiết với sự nghiệp cách mạng, với vận mệnh của đất nước đã sáng tạo nhiều hình tượng cao đẹp về Tổ quốc và con người Việt Nam thuộc nhiều tầng lớp, thế hệ trong chiến đấu, lao động, sinh hoạt, trong mối quan hệ, gắn bó với cộng đồng. Về nội dung tư tưởng, văn học thời kì này đã phát huy những nét lớn trong trong truyền thống tinh thần dân tộc – cũng là nét nổi bật trong phẩm chất con người Việt Nam của thời đại ấy đó là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần nhân đạo.
Về mặt thể loại, văn học thời kì này cũng có những thành tựu đáng kể. Các thể loại phát triển khá toàn diện nh truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, kí… trong đó thơ ca vẫn là nổi trội hơn cả. Với hai cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, thơ đã đem đến cho người đọc một tiếng nói trữ tình mới mẻ, khoẻ khoắn – tiếng nói trữ tình của quần chúng nhân dân. Các nhà thơ thời kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ nh Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu, Huy Cận, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật… đã có nhiều tìm tòi, sáng tạo góp phần đổi mới thi ca Việt Nam.
Văn học ghi lại được những hình ảnh không thể phai mờ của một thời kì lịch sử đầy gian lao, hi sinh nhưng hết sức vẻ vang của dân tộc.
Đã hàng nghìn năm lịch sử trôi qua tiếng thơ vẫn là tiếng nói tơi trẻ nhất của đời sống. Nhà phê bình văn học Nga V. Bi-ê-lin-xki đã viết: “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật. Phục vụ cuộc sống, phục vụ con người là mục đích lớn nhất của thơ chân chính”. Chính những chi tiết chân thực, sống động của cuộc đời đã khơi dậy những tình cảm sâu sắc, mới mẻ cho các nhà thơ. Và cuộc chiến đấu gian lao của dân tộc ta trong suốt ba mơi năm ấy đã khơi nguồn sáng tạo cho thơ ca, đem đến cho văn học Việt Nam thời kì này những tác phẩm thơ giàu giá trị phản ánh hiện thực. Đó là những tác phẩm bám sát thực tế đời sống dân tộc, phản ánh chân thực và sinh động hiện thực cuộc sống vĩ đại của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến và trong công cuộc xây dựng đất nước ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm trường kì là nguồn đề tài vô tận của thơ ca kháng chiến. Bám sát thực tế, thơ ca thời kì này đã phản ánh cuộc sống gian lao của dân tộc ta trong những ngày đầu kháng chiến. Các tác giả đã khai thác những chi tiết, hình ảnh tự nhiên, bình dị mà giàu sức biểu cảm của cuộc đời. Họ đã tìm thấy chất thơ ngay trong cái bình dị, bình thường, gắn văn học với hiện thực đời sống kháng chiến gian khổ của nhân dân:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.”
(Đồng chí – Chính Hữu)
Đoạn thơ thật đến từng chi tiết, hình ảnh đã tái hiện lại cuộc sống gian khổ, thiếu thốn của cuộc đời quân ngũ. Thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lơng thực, thuốc men… người lính ra trận “áo vải chân không” rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi”
Chỉ cần mấy câu ngắn gọn hình ảnh anh bộ đội thời chống Pháp hiện lên rõ nét và điển hình. Khó khăn, vất vả, thiếu thốn nhưng điều đó sẽ được giảm đi rất nhiều vì giữa họ có cái ấm áp của tình người. Cái tình ấy được bồi đắp từ cuộc sống “đồng cam cộng khổ”. Chỉ có nơi nào gian khó, chia chung “áo anh”, “quần tôi”, mới tìm thấy cái thực sự của tình người:
“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Không nói lời hoa mỹ, không lý lẽ, giải trình mà chỉ có tình yêu giữa những người đồng đội mới tạo nên sức mạnh vô địch mà kẻ thù phải khiếp sợ. Chính họ là những người đã trải qua biết bai gian khổ để làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy non sông, chấn động địa cầu, làm nên Vành hoa đỏ và thiên sử vàng cho dân tộc:
“Năm mơi sáu ngày đêm
Khoét núi
Ngủ hầm
Ma dầm
Cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn.”
(Hoan hô chiến sỹ Điện Biên – Tố Hữu)
Kháng chiến chống Pháp thắng lợi nhưng một nửa đất nước vẫn còn chìm trong bóng đêm của chế độ Mĩ – Nguỵ. Để hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, thơ ca đã theo kịp bước đi của lịch sử, ghi lại những trang sử hào hùng của cả dân tộc ta thời đánh Mĩ. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật viết năm 1969 nhưng hơn ba mơi năm sau người đọc vẫn cảm thấy hừng hực không khí chiến trường và khí thế ra trận của những binh đoàn vận tải quân sự. Tác giả đã làm sống dậy một thời gian khổ oanh liệt của những anh bộ đội Cụ Hồ Trường Sơn. Ở đó có cái dữ dội, khốc liệt của chiến tranh: chiếc xe vận tải mang đầy thương tích không mui, không đèn, thùng xe lại bị xớc. Nhưng ở đó lại tồn tại những tiểu đội xe không kính nh những gia đình nhỏ:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật)
Nhà thơ đã ghi lại chân thực nhịp sống thời chiến bằng những hình ảnh thật đặc sắc, điển hình. Bếp lửa nh tín hiệu gọi nhau về xum họp, rồi võng mắc chông chênh chung bát đũa. Bữa cơm dã chiến chỉ có bát canh rau rừng, lơng khô mà đoàng hoàng, đậm đà tình nghĩa. Trải qua mấy trăm cây số đường rừng ma bom bão đạn, họ gặp nhau trong chốc lát, chỉ kip Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi để rồi lại tiếp tục lên đường theo tiếng gọi của tiền phương “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
Nhà thơ Vũ Quần Phương đã nhận xét: “Chỗ đặc sắc trong thơ Phạm Tiến Duật : lấy cuộc sống để để nói tình cảm. Cái đặc sắc tình cảm trong thơ anh phải tìm trong cuộc sống, không tìm trong chữ nghĩa”. Quả thật, thơ của ông có giọng chắc khoẻ, đượm chất văn xuôi – một giọng thơ riêng biệt, mới mẻ trong nền thơ chống Mĩ. Những hình ảnh trần trụi, những từ ngữ thường ngày, những sự vật không nên thơ chút nào lại toả sáng trong thơ ông. Những chiếc xe không kính là một sáng tạo độc đáo của Phạm Tiến Duật vì xa nay ít có hoặc ít thấy loại xe như thế đi lại trên đường. Thế mà trên tuyến đường Trường Sơn có hàng nghìn, hàng vạn chiếc xe như thế. Thật độc đáo, thật li kì. Đó chính là sự khốc liệt, dữ dội của chiến tranh được toát ra từ hình ảnh này. Trong bài thơ còn có những câu mang dáng vẻ thô mộc, bình dị rất lính tráng thời trận mạc:
– “Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
– “Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng nh người già”
– “Không có kính ừ thì ớt áo
Ma tuôn ma xối nh ngoài trời”
– “Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước…”
Nhưng cũng có những câu thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Nh sa nh ùa vào buồng lái”
Chất hiện thực ngồn ngộn về đời sống chiến đấu gian khổ mà hào hùng của các chiến sĩ lái xe kết hợp hài hoà với cảm hứng trữ tình giàu chất sử thi đã tạo nên những vần thơ đầy ấn tượng. Đọc lại bài thơ dờng nh ta vẫn nghe trong gió rít, bụi mù và bom nổ tiếng cười nói râm ran, sôi nổi và trẻ trung của các anh lính lái xe. Đây là khúc tráng ca anh hùng của anh bộ đội Cụ Hồ thời đánh Mĩ.
Nếu Bài thơ về tiểu đội xe không kính là khúc tráng ca anh hùng của người lính trên mặt trận chiến đấu thì bài thì bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là khúc tráng ca đẹp ca ngợi người lao động trên biển cả làm chủ lao động và Tổ quốc. Trước Cách mạng tháng Tám, người ta biết đến Huy Cận với một hồn thơ buồn vạn cổ sầu thấm đẫm vào vũ trụ và lòng người thì đến nay, thơ ông đã ngập sâu vào cuộc đời, hiện thân khoẻ khoắn nhất cho sự sống. Cuộc sống mới ùa vào thơ ông, mang lại cho ông một sinh khí cha từng thấy. Đó là cuộc sống của miền Bắc nước ta trong những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà thơ đã tìm thấy mối hoà điệu của người lao động với mạch sống đang từng ngày tơi da thắm thịt của đất nước. Một không khí vui tơi, phấn khởi của cuộc đời, của vùng than Quảng Ninh đang hăng say lao động từ bình minh đến hoàng hôn và từ hoàng hôn đến bình minh. Con người náo nức xây dựng cuộc sống mới, khí thế làm ăn thật tng bừng, đoàn thuyền hùng dũng ra khơi lấy gió làm lái, lấy trăng làm buồm:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lớt giữa mây cao với biển bằng”
Dường như thiên nhiên cũng hoà vào không khí lao động khẩn Trương của đoàn thuyền. Thiên nhiên nh mở ra bát ngát, mênh mông. Cả vũ trụ từ trăng, gió, mây đến biển đều quây quần xung quanh đoàn thuyền và con người, nâng tầm vóc con người lên tầm vóc vũ trụ. Công việc của họ được miêu tả nh một trận đánh. Người dân chài bước vào lao động bình thường nh bước vào những trận chiến đấu với vũ khí là những tấm lới, với sức khoẻ của cơ bắp và với tâm thế của người đang nắm chắc phần thắng:
“Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lới vây giăng”.
Lao động thực sự là niềm vui của cuộc đời mới, con người mới. Bằng lao động và mồ hôi, họ – những người dân chài – đã viết nên bài ca cuộc đời trong một đêm lao động hào hứng, hăng say. Và bản hoà tấu của con người với vũ trụ đã biến đêm thành hội hoa đăng cho tới khi trời bừng sáng. Đoàn thuyền đánh cá hát khúc ca khải hoàn:
“Câu hát giăng buồm với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi”.
Nhà thơ Huy Cận khi nói về tác phẩm của mình đã nhận định: “Bài thơ của tôi là một cuộc chạy đua giữa con người và thiên nhiên, và con người đã chiến thắng. Tôi coi đây là khúc tráng ca, ca ngợi con người trong lao động và tinh thần làm chủ với niềm vui. Bài thơ cũng là sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn”. Với một tình yêu biển dạt dào, với một cảm hứng say mê phấn chấn và những nét vẽ tài hoa, Huy Cận đã sáng tạo những hình ảnh thơ hùng tráng về con người lao động và cuộc sống mới của đất nước trong thời kỳ mới bước vào xây dựng XHCN trên miền Bắc nước ta.
Sáng tác văn học là hoạt động nhằm “hiểu biết, khám phá và sáng tạo thực tại xã hội” (Phạm Văn Đồng). Hiện thực đất nước 1945-1975 khơi nguồn sáng tạo và là đối tượng phản ánh chủ yếu của nhiều tác phẩm văn chương. Đó là cơ sở tạo nên giá trị hiện thực cho văn học. Nhưng hiện thực trong thơ không hoàn toàn khô khốc, trần trụi. Đời sống hiện thực bộc lộ nhiều vẻ đẹp, gợi lên những niềm vui và mơ ước đã làm nảy sinh cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng lãng mạn nhất là chất trữ tình cách mạng là một thành tố quan trọng của thi ca, làm nên nét nổi bật của thi ca thời kì này, đó là sự kết hợp hài hoà giữa hiện thực và lãng mạn.
Văn học ngợi ca phẩm chất của con người Việt Nam.
Lịch sử văn học dân tộc xét đến cùng là lịch sử tâm hồn của dân tộc ấy. Lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc là nét nổi bật trong tâm hồn người Việt Nam. Nhưng ở người Việt Nam, yêu nước gắn liền với nhân đạo, nhân văn cao cả. Điều này sẽ cắt nghĩa được vì sao một dân tộc luôn phải cầm gươm, cầm súng suốt mấy nghìn năm mà thơ văn lại nói nhiều đến nhân nghĩa, đến tình yêu, đến thân phận con người trong xã hội. Yêu nước và nhân đạo trở thành truyền thống lớn của con người Việt Nam, văn học Việt Nam, là huyết mạch thần kinh nhạy bén nhất của con người Việt Nam qua suốt trường kỳ lịch sử.
Tiếp thu truyền thống ấy, văn học Việt Nam thời kì 1945-1975 nói chung, thơ ca nói riêng đã phát huy nét lớn trong tư tưởng của dân tộc – cũng là những nét nổi bật trong phẩm chất của con người Việt Nam thời kì ấy, đó là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần nhân đạo. Với hai cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, thơ ca đã sáng tạo được những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về đất nước, về nhân dân, về các tầng lớp, thế hệ con người Việt Nam vừa giàu truyền thống dân tộc, vừa đậm nét thời đại.
Văn học ngợi ca lòng yêu nước, tinh thần sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc. Nhà thơ Tố Hữu đã từng nói: “Dân tộc ta, dân tộc anh hùng”. Văn học Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chứa chan tình cảm yêu nước và cao hơn không chỉ là yêu nước mà là chủ nghĩa anh hùng của thời đại. Cuộc chiến tranh nhân dân được phát huy cao độ đã tạo nên trên đất nước này một chủ nghĩa anh hùng phổ biến trong toàn dân. Ấy là thời kì “ra ngõ gặp anh hùng”. Thơ ca Việt Nam thời kì này đã miêu tả được nhiều giá trị cao đẹp về nhân dân với lòng yêu nước thiết tha, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc. Hình ảnh nhân dân kháng chiến được miêu tả đậm nét và gợi cảm. Từ người Vệ quốc quân “má vàng nghệ” đến những anh giải phóng quân hiên ngang bất khuất; từ những bà bủ, bà bầm đến những bà mẹ con mọn vừa địu con vừa giã gạo, trỉa bắp, chuyển lán đạp rừng; từ những em bé má đỏ bồ quân đến những cụ già tóc bạc … cũng muốn lập chiến công. Cả nước thành chiến sỹ trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Nhưng có lẽ đẹp hơn cả là hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ. Đây được xem nh nhân vật trung tâm, thể hiện khá tập trung những đặc điểm của con người mới trong chiến đấu. Trong thơ ca, họ không phải là anh lính thời xa “áo đỏ đuôi gà”, “chân bước xuống thuyền nước mắt nh ma” mà là anh lính thật thà, chân thật nhưng dũng cảm, kiên cờng. Đọc bài thơ Đồng chí của Chính Hữu ta thấy hiện lên hình ảnh chân thực mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp còn nhiều khó khăn thiếu thốn. Họ là những người nông dân nghèo khổ từ “tứ xứ “ nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc mà tạm xa quê hương lên đường chiến đấu. Họ “mặc kệ” quê nhà, gia đình, người thân và cả những gì rất đỗi thân thuộc. Ở chiến trường họ cùng chung mục đích, cùng chung lí tưởng chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc; cùng chia sẻ gian lao thiếu thốn của cuộc sống quân ngũ để “súng bên súng, đầu sát bên đầu…” trở thành tri kỉ và cao hơn là thành đồng chí đồng đội kề vai sát cánh bên nhau:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Rừng hoang sương muối không chỉ là một hiện thực mà cao hơn đó là điều kiện thiên nhiên thử thách người lính. Trước hiện thực khốc liệt ấy họ vẫn đứng vững vàng với cây súng trong tay sẵn sàng chờ giặc tới. Đây là hành động sẵn sàng chiến đấu vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do hạnh phúc cho dân tộc. Với cây súng trong tay, các anh trở thành linh hồn của đất nước. Chính Hữu đã tạc bức tượng đài về người chiến sỹ cách mạng từ tình đồng chí. Từ những người lính nông dân nghèo khổ “áo vải chân không” được tình cảm cách mạng cao đẹp nâng bước họ mang trong mình dáng hình mới – dáng đứng Việt Nam ở thế kỉ XX anh dũng, hiên ngang, bất khuất, kiên cờng. Sự sáng tạo của Chính Hữu là ở chỗ kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước của thơ văn yêu nước thời kỳ trước để làm mới, làm đẹp cho hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ.
Vẫn là những anh lính Việt Nam nhưng đến bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật lại có một thái độ, t thế, tình cảm, khí phách mới mang tính hiện đại của những con người không phải chờ giặc mà là “tìm giặc” để đánh “nhằm thẳng quân thù mà bắn”. Thế hệ các anh là thế hệ của những Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thuỳ Trâm đã có thời mộng mơ, sôi nổi trên ghế nhà trường nay hăm hở ra đi chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước với một lòng yêu nước rực lửa: “Xẻ dọc trường Sơn đi cứu nước”. Con đường Trường Sơn được coi là một con đường huyền thoại trong cuốn sử vàng đánh Mĩ. Hàng triệu tấn bom của giặc Mĩ dội xuống làm biến dạng chiếc xe quân sự: không kính, không đèn, không mui. Nhưng người lính vẫn dũng cảm, can trường trong t thế:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Một t thế ung dung tới mức ngang tàng của ngơiù lính lái xe. Một sự tự tin, niềm kiêu hãnh của những con người rất đỗi tự hào về sứ mệnh của mình – sứ mệnh giải phóng đất nước:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam ruột thịt
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Hình ảnh hoán dụ “trái tim” là biểu tượng của ý chí, của bản thân, của bầu nhiệt huyết, của khát vọng tự do, hoà bình cháy bỏng trong trái tim người chiến sĩ. Cho dù xe không kính, không đèn, không mui thì người lính vẫn còn một trái tim yêu nước, một lòng khát khao giải phóng miền Nam cháy bỏng. Phạm Tiến Duật mang theo cái nhìn của tuổi trẻ Việt Nam anh hùng, của những người lính trường Sơn đã tạo dựng bức tượng đài người lính với nét ngang tàng, dũng cảm tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Thơ ca Việt Nam 1945 – 1975 đẫ dựng được những đài kỉ niệm kì vĩ, ghi lại ngững chiến công về lòng yêu nước của con người Việt Nam anh hùng. Vì độc lập tự do của dân tộc, biết bao thế hệ con người Việt Nam đã ngã xuống tô thắm thêm lá cờ đào của Tổ quốc, trong đó có cả những em bé “tuổi nhỏ chí cao”. Đọc thơ ca chống Pháp, người đọc mãi khắc sâu hình ảnh một chú đội viên nhỏ bé, nhanh nhẹn, hồn nhiên và vô cùng dũng cảm trong thơ Tố Hữu:
“Cháu bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh”
Đó là chú bé Lượm đáng yêu. Nhưng đáng yêu, đáng khâm phục hơn là ý chí quả cảm của người chiến sĩ coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Với em, nhiệm vụ chiến đấu là trên hết, trước hết. Trước gian nguy, khi khói lửa mịt mù “đạn bay vèo vèo”, em không chần chừ, nhụt chí:
“Thư đề “thợng khẩn”
Sợ chi hiểm nghèo”
Sự ác liệt của chiến tranh đã không trừ một ai kể cả những em nhỏ cha thành người lớn. Lượm tự nguyện bước vào cuộc đời chiến đấu và chấp nhận hi sinh, hi sinh anh dũng:
“Bỗng loè chớp đỏ
Thôi rồi, Lượm ơi!
Chú đồng chí nhỏ
Một dòng máu tơi”
Trong vần thơ có cái đau đớn, rụng rời, có tiếng khóc nức nở của nhà thơ. Chắc chắn sẽ không tìm thấy ở đâu có một đài tưởng niệm nào đẹp hơn đài tưởng niệm về người anh hùng nhỏ tuổi dám xả thân vì quê hương, đất nước nh trong bài thơ này:
“Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng”
Tố Hữu đã đặt nhân vật anh hùng vào bối cảnh thiên nhiên, một thiên nhiên thuần phác, trẻ trung ngọt ngào, quen thuộc. Đó là nơi ra đi chiến đấu cũng là bờ bến trở về lúc hi sinh. Đó chính là quê hương, đất nước thân yêu của em.
Đất nước Việt Nam ta nh đẹp hơn, được tăng thêm sức mạnh khi có những em bé dũng cảm, gan dạ nh Lượm và khi có những người mẹ địu con tham gia kháng chiến. Khúc hát ru những em bé trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm là một tượng đài bằng thơ khắc hoạ hình ảnh người mẹ Việt Nam anh hùng trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Với người mẹ Tà Ôi, ngoài việc nuôi con nên người thì đánh giặc giải phóng quê hương là điều trọng đại nhất của người mẹ trong những năm cả nước gồng mình chống đế quốc Mĩ xâm lợc. Tất cả những công việc mà mẹ làm nh giã gạo, tỉa bắp, chuyển lán, đạp rừng đều vì việc chung, vì làng xóm, vì sự nghiệp cách mạng. Và ngay cả những mơ ước khát vọng của mẹ cũng dành cho quê hương, đất nước:
– “Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau không lớn vung chày lún sân”
– “Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mời Ka-li”
– “Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người tự do”
Đó là những điều ước chân thật, cao quý vì đó là những mong mỏi của người mẹ lao động nghèo khổ cho kháng chiến, cho cuộc sống của mọi người. Trong đó ước được tự do là mơ ước suốt đời của mẹ, của tất cả nhân dân Tà Ôi. Khát vọng độc lập tự do của mẹ cũng là tương lai và hạnh phúc của con, của đất nước. Có thể nói tình mẹ Tà Ôi thiết tha và đằm thắm như tình cảm người mẹ hằng có nhưng lại mang nét cao cả rộng lớn của thời đại. Vì thế mẹ trở thành người mẹ chiến sỹ- người mẹ Tổ quốc. Đây cũng chính là thành công của Nguyễn Khoa Điềm khi lần đầu một bà mẹ miền núi được đa vào văn chương và đã trở thành biểu tượng về người mẹ Việt Nam nhân hậu và anh hùng.
Tình yêu nước như là tình cảm có sẵn trong mỗi con người Việt Nam. Đó chính là tình cảm hồn nhiên, giản dị và trong sáng nhưng cũng rất mạnh mẽ. “Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi. Nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ và to lớn. Nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn. Nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (Hồ Chí Minh)
Văn học khám phá những tình cảm mới của con người Việt Nam.
Kháng chiến đã làm thay đổi nhiều trong tâm trí con người Việt Nam nhưng cái tâm lý cổ truyền, tâm lý trọng tình nghĩa vốn được thể hiện trong văn học xa lại tiếp tục được thể hiện ở mức độ cao hơn. Từ trong cuộc sống mới, những tình cảm mới xuất hiện. Đó là tình đồng chí, đồng đội, tình mẹ con, tình bà cháu… sâu lặng, là lòng kính yêu, thành kính lãnh tụ.
Cái tình mới nhất đó là tình đồng chí, đồng đội. Và đồng chí cũng là một chủ đê hết sức mới mẻ của thi ca lúc bấy giờ. Nhà thơ Chính Hữu đã phát hiện tình cảm mới, quan hệ mới giữa người với người trong cách mạng và kháng chiến qua những vần thơ bay bổng nhưng giàu chất hiện thực Đồng chí. Theo lí giải của nhà thơ, điểm xuất phát của tình cảm này là từ sự giống nhau ở cảnh ngộ, xuất thân nghèo khổ và cùng chung lí tưởng, mục đích, nhiệm vụ:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành tri kỉ”
Một chữ “chung” khiến những người lính vốn xa lạ lại trở thành “Đồng chí”. Tình cảm này không phải chỉ vì cái chung lớn lao mà còn là sự cảm thông sâu xa tâm t nỗi lòng của nhau, là sự chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời cách mạng:
“Anh với tôi từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ớt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh Anh với tôi đôi người xa lạ nhưng kết thúc lại là Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Một hình ảnh giàu cảm xúc, một biểu tượng đẹp đẽ của tình đồng chí đích thực, của sức mạnh đoàn kết. Chính tình đồng chí sâu nặng, thắm thiết đã gắn bó những người lính cách mạng. Sức mạnh của tình đồng chí đã giúp họ đứng vững bên nhau vợt lên tất cả những điều khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ để đi tới thắng lợi cuối cùng.
Trong khó khăn, trong bom đạn, ranh giới sự sống và cái chết chỉ là rất mong manh, người lính thấu hiểu sâu sắc giá trị đích thực của sự sống và ý nghĩa cao đẹp của tình đồng chí đồng đội:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”
Đó là một cái bắt tay rất độc đáo qua cửa kính vỡ rồi. Qua ô cửa kính vỡ họ truyền hơi ấm cho nhau và cho nhau những hứa hẹn lập công. Cái bắt tay nồng ấm tình bạn, tình người hay chính là sự sống đang nở hoa trong sự huỷ diệt của kẻ thù. Có thể nói rằng tình đồng chí, đồng đội là bản chất, là sức mạnh của người lính. Từ cái nắm lấy bàn tay trong thơ Chính Hữu đến cái bắt tay trong thơ Phạm Tiến Duật là cả một quá trình trưởng thành và hiện đại của quân đội ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc, đất nước.
Thơ ca 1945-1075 đã dựng được những tượng đài kì vĩ, ghi lại những chiến công và lòng yêu nước của những con người Việt Nam anh hùng. Nhưng cội nguồn của lòng yêu nước là từ đâu? Nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua có viết: “Lòng yêu nước ban đầu là lòng yêu những vật tầm thường nhất. Yêu cái cây trồng trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa thu hay mùa cỏ ở thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu quê hương trở nên tình yêu Tổ quốc”. Trong chiến tranh có những tình cảm sục sôi, hừng hực khí thế nhưng cũng có những nỗi nhớ nhung, xao xuyến, bồi hồi của những tâm hồn giàu tình cảm. Xuân Quỳnh đã đa ta trở lại tuổi thơ với Tiếng gà tra:
“Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ
Cục… cục… tác cục… ta…”
Trong biết bao âm thanh sôi động của cuộc sống, nhà thơ chọn âm thanh rất đỗi quen thuộc và bình dị – tiếng gà tra. Chỉ cần có thế thôi cũng đủ để anh lính lâng lâng trở về những tháng ngày tuổi thơ êm đềm, về với bà, với tiếng gà ngày xa. trong đó hiện lên trong lòng anh là người bà tần tảo, chịu thương, chịu khó, chăm lo cho đàn gà chóng lớn, đẻ được nhiều trứng hồng để “Cuối năm bán gà / Cháu được quần áo mới”. Bà đã vất vả chắt chiu, dành dụm cho cháu có một cuộc sống đầy đủ hơn.. Tiếng gà tra mang bao tình yêu thương của bà:
“Tiếng gà tra
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng”
Tiếng gà tra xao xác nơi ngõ xóm đã gợi nhớ gợi thương trong lòng người lính trẻ ra trận. Trước kia trong làn nắng mới và âm thanh đồng quê “xao xác gà tra gáy não nùng” Lu trọng L “rợi buồn” nhớ về tuổi thơ, nhớ “nụ cười đen nhánh”, nhớ màu áo đỏ của người mẹ hiền đã đi xa thì nay Xuân Quỳnh đã tìm thấy được một cách nói với về kỉ niệm tuổi thơ, về tình bà cháu chan hoà trong tình yêu quê hương đất nước:
“Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ”
Nếu âm thanh tiếng gà tra đã gợi những tình cảm bị bỏ quên thì Bếp lửa là tín hiệu gọi đứa con xa trở về với hồn quê, hồn non nước, nơi ấy có người bà tần tảo, chịu nắng, chịu ma để nuôi cháu nên người. Bếp lửa của Bằng Việt đã để lại trong lòng người đọc cảm xúc dạt dào của hoài niệm, của tình yêu lan toả với cái nóng, cái nồng đượm của bếp lửa quê nhà, với sự ấm áp, ấp iu của “ngọn lửa lòng người”. Qua Bếp lửa, Bằng Việt đã dắt người đọc vào sâu trong mạch kể, mạch hồi tưởng với một hồi ức đẹp một đi không trở lại và được tái hiện từ hình ảnh giản dị nhưng rất đỗi thiêng liêng – bếp lửa:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
Bếp lửa – người bà, hai hình ảnh lúc nào cũng toả sáng lạ kì, trở thành điểm đi về trong cõi nhớ. Bếp lửa gợi nhớ những kỉ niệm tuổi thơ gắn với tác giả, đưa tác giả tìm về với bếp lửa quê nhà cũng là tìm về với tuổi thơ sống bên bà, trong sự che chở, nâng niu đầy trìu mến. Trong cảm nhận, nỗi nhớ đầu tiên của đứa cháu phương xa là “bếp lửa củi rơm “ và “tình bà” cũng hiện lên với cái ấm áp đượm đà, gắn bó đã sưởi ấm suốt thời thơ ấu:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nống đượm
Nhóm niền yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Bếp lửa là ẩn dụ của tình cảm nồng hậu nơi người bà và tình cảm của người bà chính là hình ảnh ẩn dụ của ngọn lửa – tượng trng cho một tình yêu cao nhất. Bếp lửa là tượng trng của cái đơn sơ khiêm nhờng nhưng ấm áp, nồng đượm. Người bà cũng vậy: thật chân chất, mộc mạc, dân dã song cũng ẩn chứa tình yêu vô bờ bến, thiết tha, chan chứa. Lấy bếp lửa để nói về tình cảm của bà, Bằng Việt hẳn phải mặn lòng với bà, với quê hương lắm lắm!
Bằng Việt – đứa con xa quê – luôn thường trực trong tim nỗi nhớ về bếp lửa, về tình yêu nồng ấm của bà. Nhưng nhớ về bếp lửa cũng là nhớ về quê nhà. Nhớ về bà đồng nghĩa với nhớ về tổ ấm gia đình trong niềm vui sum họp. Như thế trong tình cảm của bà còn có cả tình cảm của đất nước. Tác giả nhớ về bà cũng là yêu đất nước, quê hương:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trắng trăm tàu
Có lửa trăm nhà. Có niềm vui trăm ngả
Nhưng chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên cha?”
Trong suốt bài thơ bằng Việt đã đa ta theo một hành trình cao cả: từ bếp lửa củi rơm đậm đà mùi quê hương tới bếp lửa, ngọn lửa của lòng bà ngọt ngào, ấm áp; từ tiếng chim tu hú đến vị ngọt bùi của khoai sắn, của nồi xôi gạo mới. đó chính là hồn quê, hồn non nước. Hành trình ấy tựa nh hành trình của những giọt nước hoà vào suối, suối đổ ra sông, sông ra biển vậy.
Như thế, mỗi con người khi sinh ra đều mang một tâm hồn được ấp ủ bởi hoa thơm trái ngọt của tình yêu trần thế. Tâm hồn chúng ta được đón nhận những giọt sương rơi, những chồi non, lộc non, cây cỏ vờn nhà, cảm thấm nguyên lành nghĩa tình với gia đình, đồng bào, quê hương, đất nước… Tất cả điều đó đến với con người và di dưỡng, tinh thần con người qua lời ru của mẹ ngay từ thuở ấu thơ. Đó là dòng sữa mẹ ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn con người từ bao đời nay. Trong những bước đi của thời gian con người muốn Ngược nước, Ngược dòng trở về với cội nguồn. Chế Lan Viên đã mợn lời người mẹ để hát ru con bằng những lời ru con cò truyền thống đa ta trở về với điệu hồn dân tộc. Bài thơ Con cò của ông là một khúc hát ru hiện đại. Tứ thơ được vận động từ hình ảnh con cò trong lời hát ru của mẹ. Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh con cò nhưng hình ảnh người mẹ cứ hiện dần lên qua những lời hát ru đó. Mẹ ru con bằng những lời ru đằm thắm:
“Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò cổng phủ
Con cò Đồng Đăng”
Cánh cò từ trong lời ru đã đi vào trong tiềm thức của tuổi thơ trở nên gần gũi sẽ theo cùng con người đến suốt cuộc đời. Bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú của nhà thơ, con cò nh bay ra từ những câu ca dao để sống trong tâm hồn con người, theo cùng và nâng đỡ tâm hồn con người:
“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên!
Cho cò trắng đến làm quen
Cò đứng ở quanh nôi
Rồi cò vào trong tổ
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi
Mai khôn lớn con theo cò đi học
Cánh cò bay theo gót đôi chân”.
Cứ như vậy hình ảnh con cò gợi nhiều ý nghĩa. Nó biểu tượng cho lòng mẹ, cho sự dìu dắt, nâng đỡ đầy dịu dàng và bền bỉ của mẹ. Nhưng cao đẹp hơn những bài ca dao mẹ hát đã thấm sâu vào máu thịt, vào tâm hồn con, nuôi nấng trong lòng con một tình yêu bền bỉ với thi ca. Mẹ ước con lớn lên làm thi sĩ để mang lòng từ tâm nh một thứ hương hoa nhuần khiết dâng cho cõi người để lu giữ cội nguòn nhân bản cho cuộc đời. Và cuối cùng Chế lan Viên đã khái quát thành một triết lý bất di, bất dịch về tình cảm của người mẹ đối với con:
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời lòng mẹ vẫn yêu con.”
Qua bài thơ ta thấy Chế Lan Viên đập cùng nhịp yêu thương mênh mông của người mẹ để vỗ về đứa con yêu. Tình cảm ấy được truyền qua lớp ngôn từ giản dị, hồn nhiên nhưng chứa đựng một quan niệm đẹp, một cách hướng con người vào cội nguồn cái thiện tựa nh gió mát thổi vào hồn mỗi chúng ta.
Khai thác những điều tưởng chừng nh giản dị nhưng lại có sức khái quát lớn đó là một trong những xu hướng chính của thơ ca 1945-1975. Thơ ca thời kì này đã khám phá những nguồn tình cảm lớn: yêu nước, yêu dân tộc, yêu đồng chí, đồng đội, yêu gia đình… Đó là ngọn nguồn sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Văn học là tiếng nói lạc quan, yêu đời.
Dân tộc ta trong mấy nghìn năm lịch sử đã chứng tỏ một sức sống mãnh liệt, bất chấp mọi hoàn cảnh khó khăn khắc nghiệt để vơn tới trỗi dậy chiến thắng hướng tới tương lai tơi sáng. Đó cũng là nét đẹp truyên thống trong tâm hồn con người Việt Nam mọi thời đại. Thơ ca Việt Nam 1945-1975 cũng thể hiện một sức sống bền bỉ và tinh thần lạc quan của dân tộc.
Đọc thơ ca kháng chiến ta thấy có nụ cười, có tiếng hát. Đó là nụ cười “buốt giá” trong thơ Chính Hữu. Nụ cười ấy bừng sáng lên trong cơn gió rét, trong sương muối, trong đêm trăng … của người lính chân không giày, áo rách, quần vá, tê tái khó nhọc. Nụ cười ấy là nụ cười của tình đồng chí, tình thương yêu vô bờ bến trong im lặng, trong hơi ấm của bàn tay nắm lấy bàn tay. Đây chính là sức mạnh khiến họ đứng vững bên nhau để quên đi khó khăn thiếu thốn, tìm thấy niềm vui, chất thơ trong cuộc sống:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Đầu súng trăng treo – hình ảnh đẹp nhất trong thơ 1945-1975 vì nó có sự hoà quyện nhuần nhuyễn giữa hiện thực và chất thơ lãng mạn, bay bổng. Trăng biểu tượng cho cuộc sống tơi đẹp, hoà bình, hạnh phúc của nhân loại và cũng là ớc mơ hướng tới của con người. Ngược lại, súng xuất hiện, biểu tượng cho chiến tranh, nhưng súng cũng là một là một lý tưởng cao đẹp, tinh thần chiến đấu vì cuộc sống hoà bình. Tuy đối lập nhau nhưng hai hình tượng này đã tôn thêm vẻ đẹp cho nhau tạo nên vẻ đẹp hoàn mĩ nhất: vẻ dẹp người lính lạc quan, yêu đời. Chính Hữu đã tạo nên một cái nhìn đầy chất thơ nhằm khẳng định cái khát vọng về cuộc sống yên lành và để có một cuộc sống yên lành thì những người lính nh ông còn phải cầm súng chiến đấu.
Trở về với Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật đa ta trở về với con đường Trường Sơn khét nồng bom đạn thời chống Mĩ. Anh lính lái xe không chỉ dũng cảm can trường mà còn rất lạc quan yêu đời. Lạc quan, yêu đời đó chính là sức mạnh để vợt qua mọi khó khăn, gian khổ. Người lính lái xe ung dung, trên những chiếc xe không kính, ngồi phơi mặt trước gió, trước sương mà vẫn phát hiện ra những nét đẹp bất ngờ của thiên nhiên:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”
Thiên nhiên sao trời và cánh chim như sa, ùa vào buồng lái quấn lấy người lính. Và chính trong thiên nhiên đẹp đẽ, lì lạ đó tầm vóc của người lính lái xe được nâng bổng lên ngang tầm với vũ trụ. Người đọc không khỏi ngạc nhiên trước khám phá này của Phạm Tiến Duật. Hiện thực khốc liệt là thế mà nhà thơ – chiến sỹ vẫn nhận thấy vẻ đẹp lãng mạn của đời lính. Và dờng nh càng khó khăn càng vững tay lái, càng làm tăng thêm phẩm chất kiêu hùng, ngang tàng của người lính lái xe. Các anh vẫn sẵn sàng thách thức và chấp nhận sự thật:
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Cha cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”
Một mái tóc xanh của chàng lính trẻ sau mấy dặm trường đã có sự thay đổi “bụi phun”. Một kiểu hút thuốc phì phèo rất lính. Một nụ cười lạc quan yêu đời được cất lên từ một gơng mặt lấm khi đồng đội gặp nhau. Hình ảnh những người lính lái xe bỗng bừng sáng lên vẻ đẹp lạc quan tinh nghịch giữa chốn bom đạn của giặc thù.
Trong chiến đấu, con người Việt Nam vừa dũng cảm, vừa yêu đời. Trong lao động họ cũng tràn đầy một niềm hứng khởi lạc quan. Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận đã ghi lại hình ảnh những con người đang náo nức xây dựng cuộc sống mới. Bao trùm toàn bài thơ là cảm xúc trữ tình đằm thắm của một hồn thơ luông tin yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, đất nước và con người. Tác giả đã sáng tạo hình ảnh kì thú, mới mẻ – cảnh hoàng hôn – làm cái nền để khúc ca lao động vút lên phơi phới, lạc quan. Đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong tiếng hát khoẻ khoắn, sôi nổi. Người lao động hát vang bài ca tiến quân ra biển cả. Họ hát bài ca gọi cá vào. Và nhà thơ cũng hát khúc tráng ca ca ngợi con người lao động với tinh thần làm chủ, với một niềm vui. Lao động mà nên thơ, nên nhạc, mặc dù đó là thứ lao động vất vả. Tiếng hát của nhà thơ khắc hoạ cái hồn của không khí náo nức, phơi phới của những con người say mê “tập làm chủ, tập làm người xây dựng, dám vươn mình cai quả cả thiên nhiên” (Tố Hữu). Họ ra đi trong câu hát và trở về trong câu hát. Đó là một niềm tin yêu cuộc sống mới của những con người làm chủ đất nước, làm chủ bản thân. Phải tắm mình trong cuộc sống dạt dào đó thì tác giả mới thổi vào bài thơ một ngọn gió của niềm tin yêu cuộc sống mới, một chất men say lãng mạn cách mạng đẹp như thế.