ve-dep-hinh-tuong-nguoi-linh-qua-bai-tho-dong-chi-chinh-huu-va-bai-tho-ve-tieu-doi-xe-khong-kinh-pham-tien-duat

Vẻ đẹp hình tượng người lính qua bài thơ Đồng chí (Chính Hữu) và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)

Vẻ đẹp hình tượng người lính qua bài thơ “Đồng chí” (Chính Hữu) và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật).

  • Mở bài:

Có thể nói, hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm chống Pháp và người chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam thời đánh Mỹ là hình tượng trung tâm của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Qua bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật), tuy khác nhau ở điểm nhìn nghệ thuật nhưng hình tượng người lính vẫn thống nhất ở phẩm chất anh hùng, tinh thần lạc quan, tin tưởng và ý chí chiến đấu, hi sinh vì tổ quốc.

  • Thân bài:

1. Hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí” (Chính Hữu):

– Biểu hiện đầu tiên của tình đồng chí là thấu hiểu những tâm tư thầm kín của nhau:

+ Người lính lên đường ra trận quyết tâm để lại sau lưng những gì quá giá, thân thuộc nhất:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”

+ Hai chữ “mặc kệ” thể hiện sự quyết tâm dứt khoát ra đi nhưng đó không phải là phó mặc bởi hình ảnh quê hương, ruộng nương thiếu người chăm sóc, ngôi nhà xiêu vẹo trước gió vẫn hiển hiện đã diễn tả tình cảm thiết tha của họ với gia đình. Với người nông dân gian nhà, ruộng vườn là cơ nghiệp cả đời gìn giữ. Để cả cơ nghiệp của mình hoang trống mà ra đi, biết người thân ở lại trống trải nhưng cũng “mặc kệ”: thì đó quả là sự hi sinh lớn lao. .

+ Hình ảnh trong câu thơ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” không chỉ gợi về quê hương, về hậu phương của người lính, ý thơ nói về quê hương nhớ người lính mà ta như thấy được nỗi nhớ của người lính dành cho quê hương, đó là nỗi nhớ hai chiều

→ Như vậy, đồng chí tức là sự cảm thông sâu xa cho những nỗi mềm tâm tư thầm kín của nhau.

– Họ cùng nhau chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn trong cuộc đời người lính:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người, vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”

+ Những câu thơ miêu tả hiện thực, thực tới từng chi tiết. Đó là những cơn sốt rét rừng hành hạ không thuốc thang. Đó là đói rét, chân không giày, đầu không mũ, áo một manh. Đó là sương muối tê buốt như cắt da cắt thịt. Đây là hoàn cảnh chung của bộ đội ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Tác giả đã xây dựng những câu thơ sóng đội, đối ứng nhau trong từng cặp, từng câu. Đáng chú ý là người lính bao giờ cũng nhìn bạn nói về bạn trước khi nói về mình chữ “anh” bao giờ cũng xuất hiện trước chữ “tôi”, điều đó thể hiện sự yêu thương, trân trọng giữa những người lính với nhau.

+ Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp những người lính vượt qua những thử thách ấy. Họ quên mình để động viên nhau, truyền cho nhau hơi ấm. Đó là những nụ cười: “Miệng cười buốt giá”, là “Thương nhau tay nắm ấy bàn tay”. Họ đã quên đi sự giá lạnh của bản thân mà mỉm cười để sưởi ấm cho tâm hồn của những người đồng đội. Đó là những cái nắm tay biết nói của tình yêu thường để truyền cho nhau nghị lực và sức mạnh Trong suốt cuộc kháng chiến trường kì đầy gian lao vất vả ấy, tình cảm đồng chí đã đi vào chiều sâu của sự sống và tâm hồn người chiến sĩ để trở thành những kỉ niệm không bao giờ quên.

→ Câu thơ không chỉ nói lên tình cảm gắn bó sâu nặng của những người nh mà còn thể hiện sức mạnh của tình cảm ấy. Bài thơ “Đồng chí không rực rỡ chiến công mà rực rỡ tình đồng đội ấm nồng khiến họ có thể sống và làm nên bao chiến công hiển hách.

– Biểu tượng đẹp, giàu chất thơ của tình đồng chí:

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”.

+ Câu thơ thứ nhất đã miêu tả rất chân thực hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt của người lính: “Đêm nay rừng hoang sương muối”. Không gian hùng vĩ hoang vu “rừng hoang sương muối”, thời gian gian khó mùa đông ở Việt Bắc sương muối phủ đầy trời Trên cái nền thiên nhiên vừa hùng vĩ, vừa khắc nghiệt ấy, tình đồng chí được tôi luyện trong thử thách gian lao, trong nhiệm vụ sinh tử. Cũng chính ở cái nơi mà sự sống, cái chết chỉ kề nhau trong tích tắc tình đồng chí càng trở nên thiêng liêng, cao đẹp.

+ Câu thơ thứ hai đã khắc họa tư thế chiến đấu của những người lính: “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Những người lính sát cánh bên nhau “đứng cạnh bên nhau”– có tình đồng chí, đồng độ Hình ảnh đội bạn chiến đấu đứng cạnh nhau vững chãi làm mờ đi cái gian khổ khắc nghiệt của cuộc chiến tạo nên tự thể thành đồng vách sắt trước quân thủ

– Hình ảnh “đầu súng trăng treo” kết thúc bài thơ là điểm nhấn của khổ 3 cũng là điểm sáng của toàn bài. Hình ảnh này vừa có ý nghĩa thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng.

+ Nghĩa thực: như Chính Hữu từng tâm sự, trong đêm phục kích chờ giặc, ông chỉ có những người bạn chiến đấu khẩu súng và vầng trăng. Trời về khuya, có lúc nhìn lên, trăng như treo đầu ngọn súng. Từ thực tế đó, ông đã viết nên hình ảnh “đầu súng mảnh trăng treo”, sau này cắt bớt chữ “mảnh” thành “đầu súng trăng treo”.

+ Nghĩa biểu tượng, nhịp thơ 2/2 kết thúc bằng thanh bằng khiến ta liên tưởng 1 cái gì đó không bị buộc chặt mà chung chiêng, bát ngát, vang xa. Súng là hình ảnh của chiến tranh khói lửa, trăng là hình ảnh của thiên nhiên trong mát, cuộc sống thanh bình

→ Sự hòa hợp của trăng và súng toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính và tình đồng chí của họ, vừa nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước: Người lính cầm súng là để bảo vệ cho độc lập, tự do của đất nước. Trăng và súng là gần và xa, là chiến sĩ và thi sĩ, là hiện thực và lãng mạn Tất cả hòa quyện tạo nên vẻ đẹp của người lính. Chỉ với 3 câu thơ, biểu hiện đẹp nhất của tình đồng chí, đồng đội của cuộc đời người chiến sĩ đã được kết lại

2. Người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật):

Nếu như những người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp xuất thân từ những người nông dân nghèo khổ, quê hương họ là những nơi “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” thì những chiến sĩ lái xe Trường Sơn lại là những thanh niên có học vấn, có tri thức, đã được sống trong thời bình, được giác ngộ lí tưởng cách mạng cao cả, họ ra đi trong niềm vui phơi phới của sức trẻ hồn nhiên, yêu đời, yêu đất nướ

Hình ảnh người lính lái xe – hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam những năm chống Mỹ phơi phới, dũng cảm, yêu thương được khắc họa qua hình ảnh những chiếc xe không có kính và một giọng điệu thơ ngang tàn, trẻ trung, gần gũi. Những chiếc xe không có kính là hình ảnh để triển khai tứ thơ về tuổi trẻ thời chống Mỹ anh hùn Đây là một thành công đặc sắc của Phạm Tiến Duật. Qua hình ảnh chiếc xe bị bom giặc tàn phá, nhà thơ làm hiện lên một hiện thực chiến trường ác liệt, dữ dội. Nhưng cũng “chính sự ác liệt ấy lại làm cái tứ, làm nền để nhà thơ ghi lại những khám phá của mình về những người lính, về tinh thần dũng cảm, hiên ngang, lòng yêu đời và sức mạnh tinh thần cao đẹp của lí tưởng sống cháy bỏng trong họ”.

Tư thế thật bình tĩnh, tự tin “Ung dung buồng lái ta ngồi”, rất hiên ngang, hào sảng: “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Một cái nhìn cuộc đời chiến đấu thật lãng mạn, bay bổng, trẻ trung: “Thấy sao trời và đột ngột cánh chim”.

Và độc đáo hơn nữa là tinh thần hóa rủi thành may, biến những thách thức thành gia vị hấp dẫn cho cuộc đối đầu, khiến cho lòng yêu đời được nhận ra và miêu tả thật độc đáo: các câu thơ “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo” và thái độ coi nhẹ thiếu thốn gian nguy “gió vào xoa mắt đắng”. Họ đã lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, thái độ hiên ngang để thắng cái vạn biến của chiến trường gian khổ và ác liệt.

Sâu sắc hơn, nhà thơ bằng ống kính điện ảnh ghi lại được những khoảnh khắc “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”, “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Đó là khoảnh khắc người ta trao nhau và nhà thơ nhận ra sức mạnh của tình đồng đội, của sự sẻ chia giữa những con người cùng trong thử thách. Nó rất giống với ý của câu thơ “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” của Chính Hữu, nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn.

Hai câu kết bài thơ làm sáng ngời tứ thơ “Xe vẫn chạy…” về tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ: Họ mang trong mình sức mạnh của tình yêu với miền Nam, với lí tưởng độc lập tự do và thống nhất đất nước.

3. So sánh điểm giống và khác nhau về hình ảnh anh bộ đội trong hai bài thơ:

* Giống nhau:

+ Mục đích chiến đấu: Vì nền độc lập của dân tộc.

+ Đều có tinh thần vượt qua mọi khó khăn, gian khổ.

+ Họ rất kiên cường, dũng cảm trong chiến đấu.

+ Họ có tình cảm đồng chí, đồng đội sâu nặng.

* Khác nhau:

+ Người lính trong bài thơ “Đồng chí” mang vẻ đẹp chân chất, mộc mạc của người lính xuất thân từ nông dân.

+ Người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” luôn trẻ trung sôi nổi, vui nhộn với khí thế mới mang tinh thần thời đại.

  • Kết bài:

Hình ảnh người lính trong hai bài thơ “Đồng chí” “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vang lên âm hưởng sử thi hào hùng của văn học nước ta trong suốt ba mươi năm kháng chiến trường kì gian khổ. Qua đó liên hệ giữa trước đây, bây giờ và sau này, những người lính vẫn sẽ mãi là biểu tượng đẹp của dân tộc, là những người con anh hùng của Tổ Quốc.

Phân tích bài thơ Đồng chí của Chính Hữu


* Tham khảo:

Vẻ đẹp hình tượng người lính qua bài thơ “Đồng chí” (Chính Hữu) và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật).

  • Mở bài:

Đối tượng phản ánh của nền văn học Cách mạng 1945 -1975 chính là tổ quốc, là người lính chiến đấu, là nhân dân anh hùng. Hình tượng người lính trong hai bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là hình tượng đẹp, đã góp phần tô đậm bức chân dung người lính Cụ Hồ với những phẩm chất anh hùng, đáng được ngợi ca.

  • Thân bài:

Đề tài về người lính là đề tài truyền thống trong văn học, thể hiện vẻ đẹp mạnh mẽ, anh hùng của những con người gánh vác trách nhiệm bảo vệ đất nước, non sông.

1. Hình tượng người lính chống Pháp qua bài “Đồng chí” của Chính Hữu:

Đồng chí được viết đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947. Với bút pháp hiện thực và lãng mạn, bài thơ đã khắc hoạ hình tượng người lính với những phẩm chất tốt đẹp, ghi dấu ấn những năm tháng gian khổ trong buổi đầu kháng chiến:

Họ là những người lính xuất thân từ ruộng đồng lam lũ. Rất nhanh chóng, họ gắn bó với nhau bởi mục đích, lí tưởng chung:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.

Vì tổ quốc thiêng liêng và khát vọng cuộc sống hòa bình, tự do, họ sẵn sàng ra đi vì nghĩa lớn, bỏ lại những gì quý giá, thân thiết nhất nơi làng quê:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”

Cuộc sống nơi rừng sâu nước độc, họ sẵn sàng cùng nhau chịu đựng, san sẻ những khó khăn, thiếu thốn của cuộc đời người lính:

“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”

Trong gian khó, họ đã vun đắp tình đồng chí đồng đội thắm thiết: chia sẻ, thấu hiểu tâm sự của nhau ; đoàn kết gắn bó

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”

Không chỉ thế, dù cuộc sống có khắc nghiệt đến đâu, kẻ thù có ngoan cố đến thế nào, họ vẫn luôn hướng về ánh sáng, hướng về cái đẹp: “Đầu súng trăng treo”.

Bài thơ Đồng chí đã làm sống lại một thời khổ cực của cha anh ta, làm sống lại chiến tranh ác liệt. Bài thơ khơi gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm tha thiết gắn bó yêu thương mà chỉ có những người đã từng là lính mới có thể hiểu và cảm nhận hết được.

Với nhiều hình ảnh chọn lọc, từ ngữ gợi cảm mà lại gần gũi thân thuộc, với biện pháp sóng đôi, đối ngữ được sử dụng rất thành công, Chính Hữu đã viết nên một bài ca với những ngôn từ chọn lọc, bình dị mà có sức ngân vang. Bài thơ đã ca ngợi tình đồng chí hết sức thiêng liêng, như là một ngọn lửa vẫn cháy mãi, bập bùng không bao giờ tắt, ngọn lửa thắp sáng đêm đen của chiến tranh.

2. Hình tượng người lính thời chống Mĩ qua bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật:

Ra đời trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt, Bài thơ về tiễu đội xe không kinh đã dựng lại một cách tự nhiên, chân thật cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng phơi phới lạc quan của những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.

Tuy hiện thực chiến tranh vô cùng khốc liệt nhưng người lính lái xe vẫn luôn giữ tư thế hiên ngang, ung dung:

“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

Xe không có kính khiến cho cả thế giới sinh động pho bay ra trước mắt họ:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”

Thái độ bất chấp gian khổ, hiểm nguy, họ tràn đầy tinh thần lạc quan:

“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.

Ở họ là tình cảm đồng chí đồng đội keo sơn, thắm thiết, bền chặt, cùng vào sinh ra tử, sống chết có nhau:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”

Ở họ là tinh thần yêu nước, ý chí quyết chiến quyết thắng, tất cả vì miền Nam ruột thịt. Khi nào miền Nam còn bóng giặc là khi đó họ sẵn sàng lên đường. Không có gì có thể ngăn chuyến xe của họ đi tới:

“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu). Chất thơ toát ra từ những hình ảnh độc đáo, từ cảm hứng về vẻ hiên ngang, dũng cảm, sự sôi nổi trẻ trung của những người lính lái xe, từ ấn tượng cảm giác được miêu tả cụ thể, sống động và gợi cảm.

Hai bài thơ đều khắc họa rất chân thật, sinh động và thành công hình tượng người lính: từ sự mộc mạc, chân chất trong suy nghĩ của những người lính xuất thân từ đồng ruộng trong Đồng chí cho đến cách sống lạc quan, trẻ trung, có phần ngang tàng của những người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Chính những điều này đã tạo nên nét riêng độc đáo về hình tượng, để lại dấu ấn trong lòng người đọc.

Bằng tài năng, những trải nghiệm và sự gắn bó hết mình với cuộc sống của người lính, hai nhà thơ – chiến sĩ Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đã có được tiếng nói chung trong cảm hứng ngợi ca về người lính. Vì thế, tuy ra đời trong hoàn cảnh, thời gian khác nhau, cả hai bài thơ đều làm bật lên những phẩm chất cao đẹp, quý báu của người lính Cụ Hồ : tinh thần dũng cảm; ý chí vượt qua khó khăn, gian khổ; lòng lạc quan yêu đời, tinh thần sẵn sàng chiến đáu hi sinh vì nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc.

  • Kết luận:

Hình tượng người lính trong hai bài thơ mang vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời đại cách mạng : bình dị nhưng chói sáng tinh thần yêu nước. Đây là hình tượng đẹp, khơi gợi ở người đọc những cảm xúc tự hào, cảm phục và biết ơn sau sắc đối với những người đã không tiếc xương máu của mình quyết tử cho tổ tổ quốc quyết sinh.

Cảm nhận về hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang