Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật bà Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải.
- Mở bài:
Nguyễn Khải là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám. Sáng tác của Nguyễn Khải thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn với các vấn đề xã hội, năng lực phân tích tâm lý sắc sảo, sức mạnh của lý trí tỉnh táo. Truyện ngắn Một người Hà Nội là một sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Khải trong thời kỳ đổi mới, thể hiện cái nhìn nghệ thuật mới của nhà văn: nhìn con người trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử với quá khứ dân tộc, với quan hệ gia đình và các thế hiện nối tiếp. Truyện là một phát hiện vẻ đẹp trong suy nghĩ và hành động của bà nhân vật bà Hiền qua bao biển dông thăng trầm của đất nước, đó là một người giàu lòng tự trọng, thẳng thắn, thực tế, luôn có ý thức dạy con cháu sống sao cho đúng là người Hà Nội.
- Thân bài:
Bà Hiền không phải gốc người Hà Nội. Bà là người Hải Hưng nhưng gia đình lên Hà Nội từ thời Pháp mới sang. Vì sống ở Hà Nội đã lâu nên bà có lối ăn mặc, phong cách tân thời rất Hà Nội. Ở những năm 30, đa số phụ nữ nhuộm răng đen thì bà Hiền đã cạo răng trắng và uốn tóc, mặc quần áo đồng màu, hoặc đen hết hoặc trắng hết. Bà cũng đã biết dùng đồ ngọc, bạch kim và hạt xoàn. Cách ăn mặc chứng tỏ bà là người có khiếu thẩm mĩ, mang phong cách sang trọng, quý phái của người Hà Nội. Gia đình bà là gia đình gia giáo nên lối sinh hoạt cũng rất sang trọng, lễ nghi: bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ quy định…
Bà là người thông minh, khéo léo, giỏi giang trong làm kinh tế và có tài văn chương. Gia đình bà đã mở một salon văn học để tiếp các bạn văn. Nhiều cây bút đã phải nhờ bà đọc bản thảo bởi họ tin vào tào thẩm định của bà. Giỏi văn chương nhưng bà không hề lãng mạn, mơ mộng viển vông mà rất thực tế. Một khi đã tính là làm và khi làm là không để ý tới sự đàm tiếu của thiên hạ. Bà đã từng tuyên bố với nhân vặt tôi: “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”.
Giữa lúc cả nước đang gặp khó khăn trong những ngày tháng sau chiến tranh thì bằng sự khôn khéo tháo vát của mình bà vẫn tạo dựng được cho gia đình mình một cuộc sống đầy đủ, sung túc. Bà có tới hai dinh cơ ở Hà Nội, một đang ở và một ở Hàng Bún. Công việc của bà là làm hoa giấy, hoa tự tay bà làm. Do làm đẹp nên bán rất đắt. Biết được chủ trương của nhà nước không thích cá nhân làm giàu, làm giàu lại bị quy là tư sản nên gia đình bà cũng không làm giàu, chỉ làm đủ để ăn, không cho chồng mở cửa hàng in để kinh doanh. Bà cũng bán một căn nhà ở Hàng Bún đi. Vì vậy, khi chính phủ bắt những người thuộc thành phần tư sản đi học tập cải tạo thì gia đình bà vẫn không bị liệt kê vào thành phần đó. Bà nói: “Tao có bộ mặt tư sản, một cách sống rất tư sản nhưng lại không bóc lột ai thì làm sao thành tư sản được“. Đến đây người ta phải thừa nhận bà là một người rất khôn khéo, thức thời, biết tính toán theo thời thế, luôn phù hợp với chế độ.
Không chỉ giỏi làm kinh tế, trong gia đình bà còn là một người vợ, người mẹ đảm đang, hiểu biết. Khác hẳn với những người phụ nữ truyền thống chỉ luôn luôn biết phục tung chồng, bà lại khẳng định mình mới là nội tướng trong gia đình. Bà đã từng bảo cháu mình: người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao. Và phải công nhận mọi tính toán của bà trong gia đình đều rất hợp lý. Chẳng hạn như chuyện sinh con: sau khi sinh xong người con thứ năm, bà đã nói với chồng: “Từ nay chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi, nếu tôi và ông sống đến sáu chục tuổi thì con út đã hai mươi, có thể tự lập được, khỏi phải sống bám anh chị“. Hay trong việc giáo dục con cái bà cũng hết sức nghiêm khắc. Bà luôn giáo dục con về nề nếp người Hà Nội, sống, ăn, nói cho xứng đáng là người Hà Nội. Bà dạy con từ cách ngồi vào bàn ăn, cách cầm đũa, cầm bát, cách múc canh, cách mói chuyện trong bữa ăn. Người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng. Bà còn dạy các con phải biết tự trọng, biết xấu hổ. Bởi biết tự trọng, biết xấu hổ tức là biết yêu quý bản thân , mà có yêu quý bản thân mình thì mới yêu quý đến người khác. Cách dạy con đã chứng tỏ bà là một người mẹ thương con và có học vấn. Các con của bà đã trưởng thành và đều trở thành những người giỏi giang và dũng cảm, dám hi sinh thân mình vì Tổ quốc.
Vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật bà Hiền chỉ thực sự bộc lộ rõ nhất khi bà phải đứng trước sự lựa chọn giữa một bên là vận mệnh của Tổ quốc với một bên là người con của mình. Bà biết đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên lợi ích cá nhân. Mặc dù đau đớn nhưng bà vẫn bằng lòng để những đứa con của mình ra nơi mũi tên hòn đạn. Bà nói: “Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì. Như bao người mẹ khác, cô sẵn sàng hi sinh cả những gì quý giá nhất cho Tổ quốc!”.
Bà Hiền là một người giàu lòng tự trong. Nét “chuẩn” trong nghĩ của bà Hiền là lòng tự trọng, vì bà quan niệm rất rõ ràng: Tự trọng ở đây gắn liền với việc không để mình rơi vào tình trạng nhục nhã, sống giữ được cốt cách và đặc biệt là không quên trách nhiệm với cộng đồng (một tinh thần trách nhiệm không cần tuyên bố ồn ào, bốc đồng, hời hợt). Những lời thổ lộ của bà Hiền xung quanh việc bằng lòng cho hai đứa con đi bộ đội thể hiện rõ điều này: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”, “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”, “Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui lẻ có hay hớm gì”…
Không phải không có những ngộ nhận về tính cách người Hà Nội. Trong truyện, tác giả đã khéo tạo ra một tình huống để làm rõ vấn đề này. Trong khi nhân vật “tôi”, giữa một bữa tiệc, đã “nói hơi nhiều” những ý chê trách Hà Nội trong sự so sánh nó với những vùng miền khác, thì nhân vật Dũng, con bà Hiền, mới từ chiến trường miền Nam trở về, đã kể cho mọi người nghe về phản ứng tâm lí của một người mẹ Hà Nội có con hi sinh: “Bà níu chặt lấy một cánh tay của cháu, người bà run bần bật nhưng không khóc, và bà nói run rẩy: “Nín đi con, nín đi Dũng! Cô đã biết cả. Cô biết từ mấy tháng nay rồi”. Đúng là một sự đối trọng. Câu chuyện của Dũng tự nó nói lên bao điều!
Lòng tự trọng ở bà Hiền không cho phép sống tùy tiện, buông thả. Đó là lòng tự trọng không cho phép sống hèn nhát, ích kỉ. Lòng tự trọng giúp con người ta sống có trách nhiệm với cộng đồng.
Bà Hiền là người thẳng thắng, không thích vòng vo, quanh co. Bà bày tỏ rất thẳng nhận xét của mình về cuộc sống với bao vấn đề (vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều…) Bà có chính kiến, chủ kiến riêng về nhiều chuyện “vĩ mô” của nhà nước, chế độ. Khi đứa cháu nói: “Nước được độc lập vui quá cô nhỉ?”, bà đã trả lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?”. Theo bà “Chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng, phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công sá cho kẻ ăn người ở…”. Bà cũng nhận ra có cái gì đó không phù hợp trong cách nghĩ “không thích cá nhân làm giàu”: “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dù họ có đủ tài để không phải sống ăn bám”.
Đặc biệt, bà có một quan điểm hết sức khác thường: “Xã hội lúc nào cũng phải có một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị…”. Chưa hết, bà còn phát biểu về cái huyền vi của sự sống mà càng ngày ta càng phải thừa nhận: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được”.
Bà Hiền còn là người Suy nghĩ của bà Hiền về cuộc sống rất thực tế. Bà biết “nhìn xa trông rộng” (qua thái độ nghiêm túc, lựa chọn kĩ càng việc hôn nhân của mình, việc sinh con với mong muốn để dạy con vào đời bằng sự tự lập, vươn lên, nhìn nhận vai trò “nội trợ” của người phụ nữ…)
Không vồ vập, không lãng mạn, viễn vông với cuộc sống mới. Nhân vật bà Hiền là một mẫu hình của người Hà Nội với tất cả sự lịch lãm khôn ngoan nhưng không đến nỗi lạnh lùng duy lý: “Mọi sự mọi việc đều được các bà ấy tính toán trước cả. Và luôn luôn tính đúng vì không có lòng tự ái, sự ganh đua, tính thời thượng chen vô. Không có cả sự lãng mạn hay mơ mộng vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ”. Đó là cách sống biết rõ giá trị và khả năng của mình, nhưng không phải là lối sống ích kỷ, bo bo vun vén cho riêng mình theo chủ nghĩa cá nhân tư sản hoàn toàn
Việc hôn nhân: Việc bà lấy ai không lấy, lại lấy một ông giáo cấp tiểu học hiền lành chăm chỉ làm chồng đã “khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc”, phần nhiều chỉ là một cách nói ngoa ngôn khá đặc thù của văn chương. Nếu quả người ta có kinh ngạc, thì đó là sự kinh ngạc trước một chuyện không ngờ lại xảy ra bình thường (thậm chí là tầm thường) quá như thế. Tuy vậy, nếu bình tâm suy xét, ta lại thấy trong tất cả những cái bình thường kia lại chứa đựng một triết lí sống đáng vị nể, vừa thể hiện bản lĩnh cá nhân một con người, vừa bộc lộ kiểu ứng xử đặc trưng của đất kinh kì. Bà Hiền biết rõ mình là ai (câu tuyên bố “thẳng thừng” của bà đối với nhân vật “tôi” đã chứng thực điều đó: “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”), và cũng tương tự thế, bà hiểu sâu xa mình là người Hà Nội. Sau năm 1954, gia đình bà chẳng di cư vào Nam vì “không thể rời xa Hà Nội”. Đây không đơn giản chỉ là một biểu hiện của tình yêu đối với nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng mình, mà còn là một biểu hiện của niềm tin vào thế tồn tại bền vững của mảnh đất đã trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, có văn hoá riêng đã thấm vào máu thịt cư dân nơi này.
Bà Hiền là người công dân có trách nhiệm với đất nước (hưởng ứng chủ trương xây dựng một xã hội nhân ái không có cảnh người bóc lột người của chính phủ nên không đồng ý cho chồng mua máy in và thuê thợ, đồng ý cho con đi bộ đội). Thái độ ứng xử nhằm “thích ứng” của bà Hiền cũng được diễn tả một cách rõ ràng và táo bạo: “Chế độ này không thích cá nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng hay, thiếu ăn là vinh chứ không là nhục, nên tao cũng chỉ cần đủ ăn”.
Bà luôn tự hào về Hà Nội, người Hà Nội, văn hóa của Hà Nội (luôn nhắc nhở, dạy con cháu về cách sống. Bà Hiền răn lũ con: “là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Hoá ra vậy, làm người Hà Nội vừa là một vinh dự, vừa là một trách nhiệm. Bà Hiền hẳn là luôn đau đáu về vấn đề này, chẳng thế mà dù đã ngoài bảy mươi, bà vẫn để lộ tâm sự đó của mình khi hỏi người cháu (“tôi”) vừa mới từ thành phố Hồ Chí Minh ra thăm: “Anh ra Hà Nội lần này thấy phố xá thế nào, dân tình thế nào?” Ngỡ đó chỉ là một câu hỏi xã giao thông thường mà thực chất lại gửi gắm bao nỗi niềm, bao phấp phỏng và hi vọng về tương lai của Hà Nội. Những điều vừa nói trên chứng minh sự gắn bó làm một, rất máu thịt, giữa bà Hiền và Hà Nội, của người Hà Nội qua từng cách ngồi, cách ăn, đi đứng, qua lời ăn tiếng nói).
Tuy là người Hà Nội chính gốc, nhưng cô Hiền hòa đồng rất nhanh với cuộc sống mới không chỉ ở suy nghĩ mà còn ở những việc làm cụ thể của mình. Cuộc sống còn khó khăn của giai đoạn đầu, nhưng bà đã nhanh chóng thích ứng bằng việc mở cửa hàng bán hoa do đích thân bà và các con làm và bán sản phẩm.
Nhân vật bà Hiền trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước và những năm đầu sau chiến tranh. Nhà văn còn khai thác nét tính cách nhân vật khi đặt vào trong những giờ phút trọng đại có ý nghĩa sống còn với dân tộc để người đọc biết đến một sự thực tâm hồn những người mẹ trong thời chiến tranh. Trong văn học trước 1975, có lẽ những hoàn cảnh tiễn người thân ra trận sẽ được khai thác tập trung vào cảm hứng sử thi, ca ngợi hình ảnh người ra đi tươi vui, người ở nhà tin tưởng và lời hẹn trở về trong chiến thắng vinh quang.
Nguyễn Khải đã không diễn tả theo đường mòn cũ mà cho chúng ta nhìn thấy một sự thật về con người trong thời chiến. Người mẹ ấy đã chấp nhận cho đứa con đầu ra mặt trận, trong một tâm trạng thật đặc biệt như bao bà mẹ khác. Khi người cháu hỏi: “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?” bà đã nói ra một sự thật: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hy sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Xét cho cùng, đó cũng là lòng tự trọng của một người mẹ, của một người ý thức rõ trách nhiệm công dân của mình, trong thời điểm “những năm đất nước có chung một tâm hồn, một gương mặt”.
Không chỉ có vậy, cả người con trai thứ hai hừng hực khí thế thanh niên thời đại đòi lên đường, bà cũng có một cách ứng xử thể hiện rõ phẩm cách một người mẹ hiểu rõ tâm tư thế hệ con cháu: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Nhà văn không chỉ khai thác hình tượng người mẹ thời chiến dưới một góc nhìn mới, mà còn thấy được sự ảnh hưởng lan truyền thế hệ, khi lòng tự trọng dân tộc đã hoà quyện niềm tự hào nếp nhà, để những đứa con sống xứng đáng với niềm tự hào của mẹ. Cái tinh tế trong đời sống tình cảm của người Hà Nội chính là thái độ biết chia sẻ trước đau thương mất mát của người mẹ khác.
Trong giờ phút hân hoan mừng chiến thắng, điều xúc động lại chính là nỗi đau thấm thía được phát biểu qua câu nói của Dũng người lính can trường trở về trong vinh quang nhưng hiểu rõ giá trị của sự hy sinh, khi 660 người trai Hà Nội ra đi chỉ trở về hơn bốn chục người, khi người bạn thân nằm lại chiến trường ngay trước giờ chiến thắng: “Cháu biết nói thế nào với một bà mẹ có con hy sinh, mà bạn của con mình lại vẫn còn sống, sống đến bây giờ, đến hôm nay”. Đó là giá trị nhân bản của cuộc chiến đấu, được tính bằng máu! Không thể vì niềm hân hoan hội ngộ, vinh quang chiến thắng mà được phép quên đi! Nguyễn Khải đã khai thác vào một góc khuất của chiến tranh mà trước đó văn học ta mới chỉ khai thác cái hùng tráng mà chưa nói nhiều về bi kịch của từng gia đình, từng số phận trong chiến tranh. Vào thời điểm ấy, cách nhìn của nhà văn đã có sự chuyển hướng so với văn học giai đoạn trước, hướng đến với cái bình thường.
Trong ngày thường sau chiến tranh, một người như bà Hiền đã hoà nhập rất tốt vào cuộc sống chung, cũng “áo bông ngắn, quần thâm, đi dép hoặc đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu”. Để hoàn thiện chân dung nhân vật Hiền, Nguyễn Khải còn nhấn mạnh vào thái độ chu tất trong nết ăn, nết mặc, trong cử chỉ lau đánh cái bát đựng hoa thuỷ tiên, trong việc duy trì một cách “bướng bỉnh” cái nền nếp sinh hoạt xa lông một thời vẫn thường bị định kiến là “tư sản”. Điều này khiến ta chợt nhớ tới câu ca nói về người Hà Nội từ xưa: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, / Chẳng lịch cũng thể con người Tràng An”. Nhưng bà, cũng như các bạn của mình, không vì vậy mà không được quyền sống cho mình. Họ, lúc cần, đã biết rũ bỏ “đồng phục” để hoá thân thành những con người khác, đáng để cho những kẻ yêu cái đẹp ngắm nhìn. “Bà chủ xuất hiện trước như diễn viên trên sân khấu, rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển”. Tất cả những điều đó cũng là biểu hiện cụ thể của bản lĩnh sống – một vấn đề hết sức nghiêm túc cần được nhìn nhận thấu đáo trong hoàn cảnh sống của đất nước, của thời đại bây giờ.
Giá trị văn hoá ấy kết tụ trong một người phụ nữ vô danh, bình thường cũng đã kết tụ tầng sâu văn hoá đất kinh kỳ xưa. Ngay cả khi cơn lốc dữ dội của nền kinh tế thị trường làm xói mòn đi nếp sống của Hà Nội ngàn năm văn vật thì cũng không thể làm lay chuyển ý thức của những con người luôn tin vào giá trị văn hoá bền vững của Hà Nội không thể mất đi. Chỉ ra những nét tính cách phức tạp nhưng hết sức hợp lý của một người phụ nữ bình thường, Nguyễn Khải đã đề cao nét đẹp văn hoá Hà Nội ẩn chứa trong nhân vật bà Hiền.
Chi tiết bà Hiền kể cho nhân vật “tôi” nghe về sự hồi sinh sau cơn bão của cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn mang ngụ ý triết lí sâu sắc. Có thể tính cách bà Hiền còn những điều phải bàn cãi để đi đến một sự nhận diện có tiêu biểu cho tính cách người Hà Nội gốc hay không, nhưng như nhà văn khẳng định: “Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn luôn là thời vàng son. Mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi”. Không những thế, ông còn bày tỏ thái độ ca ngợi con người biết trân trọng những giá trị tâm linh, như cây si cổ thụ đền Ngọc Sơn vẫn vững chãi qua thời gian. Dẫu có lúc bị bật gốc, nhưng nhờ những con người còn biết lưu giữ những giá trị đích thực của quá khứ mà cây cổ thụ đã được hồi sinh.
Những giá trị văn hoá bền vững không bao giờ mất đi, mà như nhà văn ước ao những giá trị ấy sẽ hoá thân vào hiện tại: “Bà già vẫn giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá. Một người như cô phải chết đi thật tiếc, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ chói sáng những ánh vàng.”
Có thể nói ở bà Hiền đã hội tụ những gì tiêu biểu nhất cho tâm hồn, tính cách của con người Hà Nội. Vẻ đẹp của bà cũng chính là vẻ đẹp của con người Hà Nội nói chung, không chỉ lịch lãm, sang trọng , quý phái ở dáng bề ngoài mà còn ánh lên vẻ đẹp tâm hồn. Đó là sự hiểu biết, khôn khéo, tình nghĩa và đầy bản lĩnh. Bà chính là một trong những vô vàn hạt bụi vàng lấp ló đâu đó trong mỗi góc phố của Hà Nội, Tuy nhỏ bé nhưng nó đã góp phần làm nên ánh hào quang của mảnh đất kinh kì.
- Kết bài:
Qua suy nghĩ và việc làm của nhân vật bà Hiền, ta thấy nổi lên hình ảnh một con người Hà Nội bình thường nhưng rất đáng trân trọng, nổi lên bản lĩnh một con người song hành cùng chặng đường dài, những biến động lớn lao của đất của đất nước, bà quả thật là “hạt bụi vàng” của Hà Nội, góp phần làm đẹp thêm bản sắc văn hóa chung của cộng đồng. Nội dung trên đã được thể hiện khá rõ qua bút pháp xây dựng nhân vật, giọng điệu trần thuật của nhà văn Nguyễn Khải. Tác phẩm một mặt thể hiện tình yêu Hà Nội, niềm tin vào Hà Nội của nhà văn nhưng mặt khác còn là lời nhắc nhở đối với thế hệ hôm nay, phải làm gì để giữ gìn những nét văn hóa truyền thống của một người Hà Nội? Đó là một sự thành công của nhà văn khi viết về Hà Nội – một đề tài tưởng cũ nhưng vẫn mới, vẫn đẹp.