bai-tho-dat-nuoc-cua-nguyen-khoa-diem

Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm

Đoạn thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

  • Mở bài:

Đoạn trích Đất nước là là phần thơ trích gần như trọn vẹn chương VI của trường ca Mặt đường khát vọng. Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành bản trường ca ở chiến khu Thừa Thiên Huế cuối năm 1971 và đưa ra miền Bắc in lần đầu tiên (1974). Đây là một đoạn thơ trữ tình, chính luận đặc sắc tiêu biểu cho thơ Nguyễn Khoa Điềm và cho thế hệ trẻ những năm chống Mỹ cứu nước.

  • Thân bài:

Cốt lỗi của phần thơ này là tư tưởng “đất nước của nhân dân”.

Đoạn trích “Đất nước” về kết cấu được chia làm hai phần. Phần 1 (Từ đầu… làm nên đất nước muôn đọc): Nguyễn Khoa Điềm nêu lên những suy nghĩ, cảm nhận của mình về đất nước bằng ngôn ngữ thơ ca. Phần hai (đoạn thơ còn lại): Tác giả hiện rõ tư tưởng “đất nước của nhân dân” và và nhân dân không chỉ làm nên đất nước mà còn là chủ nhân đất nước của mình.

Tư tưởng ấy dường như quy tụ mọi cái nhìn của nhà thơ về địa lý, lịch sử, văn hóa, tính cách dân tộc. Đó cũng là sự thức tỉnh của thế hệ trẻ Việt Nam. Nói rộng là sự tự nhận thức của tuổi trẻ Việt Nam trong những năm chiến tranh để đi đến sự lựa chọn quyết định. Đó là đứng về phía nhân dân gánh vác trách nhiệm với dân tộc trong cuộc chiến tranh thiêng liêng để giải phóng và bảo vệ đất nước.

Đất nước luôn là một chủ đề lớn trong thơ ca Việt Nam từ xưa đến nay. Đặc biệt là từ sau Cách mạng tháng tám, đất nước là chủ đề được khai thác nhiều và có nhiều bài thơ thành công viết về chủ đề này. Tuy nhiên, có những tác giả thiêng về cảm xúc trữ tình sâu lắng như bài thơ “Đất nước” (Nguyễn Đình Thi), “Bên kia sông Đuống” (Hoàng Cầm), “Việt Bắc” (Tố Hữu),… Nhưng cũng có những nhà thơ nghiêng về chất chính luận trí tuệ và tiêu biểu: Chế Lan Viên, Nguyễn Khoa Điềm,…

Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã được thể hiện xuyên suốt ở đoạn thơ. Cái lí lẽ mà tác giả nêu lên nhằm thuyết phục người đọc thật giản dị và cũng thật sâu sắc. Không phải ai khác mà chính là nông dân – những người nhỏ bé vô danh đã làm nên đất nước, đã xây dựng và tạo nên những truyền thống căn hóa lịch sử hàng ngàn đời của dân tộc. Nhưng lí lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khô khan trừu tượng mà bằng những hình ảnh gợi cảm và một giọng thơ tha thiết trữ tình thông qua những câu thơ có sự kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ. Nguyễn Khoa Điềm đã đưa lại cho người đọc những nhận thức sâu sắc về đất nước, nhân dân. Tư tưởng ấy thức tỉnh trong mỗi người niềm tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc.

Đoạn thơ mang đậm tính chất trữ tình chính trị sâu sắc. Nếu thơ trữ tình trực tiếp biểu hiện cảm xúc trực tiếp về quê hương – đất nước, ca ngợi vẻ đẹp của quê hương nhằm đưa lại cho người đọc những cảm xúc sâu lắng về quê hương – đất nước thì thơ trữ tình – chính luận tập trung biểu hiện những suy nghĩ, cảm nhận, những chiêm nghiệm về đất nước, có tác động tới nhận thức của người đọc, giúp họ cảm nhận sâu sắc về đất nước, khơi gợi trách nhiệm của mình đối với quê hương đất nước.

2. Đất nước hiện hình trong không gian, thời gian và chiều dài lịch sử, văn hóa.

Phần một của đoạn thơ này có thể xem như là một định nghĩa của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Tất nhiên là nhà thơ định nghĩa theo một cách thức riêng của nhà thơ, của thơ ca và được phát biểu thông qua những hình tượng sinh động, cụ thể đầy gợi cảm.

Đất nước với Nguyễn Khoa Điềm không phải là một khái niệm xa xôi, trừu tượng mà rất gần gũi, thân thiết, gắn bó sâu sắc với mỗi con người, mỗi gia đình. Đất nước hiện lên qua những câu chuyện kể của mẹ mà ta thường nghe lúc tuổi còn thơ. Câu chuyện thường bắt đầu bằng một câu mở đầu quen thuộc “ngày xửa, ngày xưa”. Đất nước còn là những trong phong tục tập quán được lưu giữ từ ngàn đời nay. Nó biểu hiện ở miếng trầu bà ta vẫn ăn hàng ngày. Hay thói quen “bới tóc sau đầu” của mẹ cho đến “hạt gạo một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Thậm chí ngay cả cái kèo cái cột trong nhà cũng góp phần làm nên đất nước:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rôi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa…
Mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên”

Tất cả đều đó làm cho đất nước trở thành cái gần gũi, thân thiết trong cuộc sống hằng ngày của mỗi con người. Nhưng cái mới lạ, hấp dẫn của đoạn thơ này chính là cách nói hết sức bình dị và mới mẻ của nhà thơ. Điều này đã khơi dậy trong tiềm thức sâu xa của mỗi người đọc những kỉ niệm sâu nặng với quê hương đất nước. Cảm xúc chân thực khiến ta đọc lên không khỏi xúc động bồi hồi.

Đất nước được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm triển khai trên ba phương diện. Đất nước trải dài theo chiều dài thời gian lịch sử. Nghĩa là nhìn nhận đất nước từ thuở Lạc Long Quân – Âu Cơ cho đến sau này. Đất nước cũng được mở ra theo bờ rộng của không gian địa lý: với núi cao, biển rộng, sông dài,… Đất nước còn được nhìn nhận ở bề dày của truyền thống, phong tục, tập quán,…

Về không gian, đất nước là biển sâu, núi rộng, sông dài. Đất nước là không gian sinh tồn của biết bao thế hệ con người Việt Nam từ đời này qua đời khác. Tiếp tục mạch cảm hứng ở khổ thơ đầu, trong khổ thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm đã tách riêng hai yếu tố “đất – nước” để phân tích, lí giải. Đây không phải là hình thức chơi chữ mà là cách để nhà thơ hiểu sâu hơn, kĩ hơn về đất nước của mình.

Với Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước” chính là sự hợp thành của đất và nước. Nó luôn luôn gần gũi, gắn bó sâu nặng với cuộc sống của mỗi người về không gian địa lí. Đất nước không chỉ là núi sông, rừng bể gắn với lời ca thân thuộc “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc… con cá ngư ông máng nước biển khơi” mà còn là không gian gần gũi với cuộc sống mỗi người, nhất là tình yêu đôi lứa:

“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
trong nỗi nhớ thầm thì”

Đồng thời đó cũng là không gian sinh tồn của cả cộng đồng bao thế hệ:

“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau”

Về thời gian, đất nước được nhà thơ nhìn nhận theo suốt chiều dài lịch sử từ thuở Lạc Long Quân – Âu Cơ rồi thời vua Hùng dựng nước cho đến ngày nay. Đất nước được cảm nhận suốt chiều dài từ quá khứ nghìn xưa:

“Đất là nơi chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Cho đến hiện tại hôm nay với những người không quên truyền thuyết Hùng Vương nên:

“Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cuối đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Đất nước với Nguyễn Khoa Điềm không chỉ mở ra theo chiều rộng của không gian địa lý và chiều dài của không gian lịch sử mà còn được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương diện văn hóa, truyền thống, phong tục. Đất nước kết tinh trong cái hằng ngày và cái vĩnh hằng đặc sắc của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Nó không phải là cái gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt cảu mỗi con người, đất nước có ở trong anh và em:

“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước”

Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân và vận mệnh chung của cả cộng đồng dân tộc. Cũng chính vì vậy mà trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước không phải là cái gì khác mà đó cũng chính là trách nhiệm của bản thân mình. Đoạn một của phần thơ kết thúc với lời nhắn nhủ thế hệ trẻ về trách nhiệm công dân, về tinh thần chiến đấu hi sinh cho sự sống muôn đời của đất nước:

“Em ơi Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời”.

Câu thơ mang tính chất chính luận nhưng người đọc không cảm thấy đó là những lời giáo huấn mà chỉ nghe vang lên thật chân thành tha thiết như lời nhà thơ tự nhủ, tự dặn mình.

Đất nước của nhân dân, do nhân dân lao động sáng tạo nên.

Nguyễn Khoa Điềm tập trung làm nổi bật tư tưởng Đất nước của nhân dân và chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất nước. Quan điểm này đã dẫn tới một cách nhìn mới mẻ có chiều sâu về địa lý, lịch sử văn hóa của Đất nước. Những cảnh đẹp của thiên nhiên trên khắp mọi miền của Đất nước qua sự cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm không còn là những cảnh đẹp của thiên nhiên thuần túy nữa mà nó gắn liền với cảnh ngộ, số phận của nhân dân, nó trở thành biểu tượng cho tâm hồn và lối sống của nhân dân.

“Những cặp vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Góp ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”.

Không phải ai khác mà chính nhân dẫn đã mở mang, khai phá, sáng tạo, tạo dựng nên Đất nước này. Nhân dân không chỉ đổ mồ hôi, xương máu mà còn ghi lại dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất, lấy tên mình để đặt tên cho những vùng đất như: “ông Đốc”, “ông Trang”, “bà Đen”, “bà Điểm”,… rồi “núi Bút”, “non Nghiêng”, “những con cóc”, “con gà ở Hạ Long”,… Tất cả đều gắn liền với đời sống nhân dân, chúng chỉ trở thành thắng cảnh khi có quan hệ mật thiết với cuộc sống và số phận của nhân dân.

Khi được tiếp nhận và cảm thụ qua tâm hồn nhân dân, qua lịch sử của nhân dân, nếu không có những người vợ mòn mỏi chờ chồng qua những cuộc chiến tranh, các cuộc phân li cách biệt thì không thể có cảm nhận đầy đau đớn, xót xa về núi Vọng Phu cũng như nếu không có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì không thể có sự cảm nhận thật đẹp đẽ, hoàn hảo, hào hùng về vẻ đẹp hùng vĩ trùng điệp của núi đồi xung quanh đền Hùng,…

Những thắng cảnh thiên nhiên của Đất Nước đều gắn liền với cuộc đời, số phận của nhân dân và nó trở thành những biểu tượng cho tâm hồn, lối sống của nhân dân như núi Vọng Phu,… Nhân dân không chỉ tạo ra của cải, vật chất cho xã hội mà còn sáng tạo ra những giá trị tinh thần, những truyền thống văn hóa,… lưu truyền từ đời này qua đời khác. Nhân dân cũng là những con người sẵn sàng đứng lên bảo vệ Đất Nước trước những hiểm họa của giặc xâm lăng. Khi nói đến lịch sử đất nước, Nguyễn Đình Khoa không nói đến những bậc vua chúa, những con người từng ghi danh trong sử sách mà nhấn mạnh đến những con người nhỏ bé vô danh:

“Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.

Cảnh vật thiên nhiên qua sự cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn máu thịt của nhân dân, chính nhân dân đã tạo dựng lên Đất nước này đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất từ những hình ảnh, những cảnh vật và hình tượng cụ thể. Nhà thơ nâng lên thành một kết luận mang tính khái quát sâu sắc:

“Và ở đâu đó khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình,một ao ước,một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau 4000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”

Nhân dân cũng in bóng vào lịch sử xưa nay, lịch sử của một Đất nước thường được xác định bởi những chiến công, những sự kiện nổi bật, bởi sự thăng trầm của các thời đại, bởi tên tuổi của những nhân vật nổi tiếng, những anh hùng,… Còn với Nguyễn Khoa Điềm, lịch sử Đất nước được tạo dựng nên bởi muôn vàn những con người bình dị vô danh:

“Có biết bao lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.

Chính nhân dân – những con người bình dị vô danh ấy đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ con cháu mọi giá trị tinh thần vật chất của Đất Nước, từ ngọn lửa, hạt lúa, tiếng nói, tên xã, tên làng cho đến những câu chuyện thần thoại, những câu tục ngữ, ca dao:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”.

Mạch cảm xúc suy nghĩ của nhà thơ cứ dồn dập tụ dần để cuối cùng dẫn đến cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của cả đoạn thơ, vừa bất ngờ, vừa giản dị, vừa độc đáo:

“Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quí công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”

Trước hết, đáng chú ý là câu thơ: “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Ở câu thơ này, có hai vế song song đồng đẳng, là một cách định nghĩa về Đất nước thật giản dị mà cũng thật độc đáo bởi vì vẻ đẹp của tinh thần nhân dân đó là truyện thần thoại, truyện cổ tích, là ca dao, dân ca,… Ở đây trong cả kho tàng dân ca, tác giả chỉ chọn ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất trong tính cách truyền thống của nhân dân, đó là thật say đắm trong tình yêu cho nên biết “yêu em từ thuở trong nôi”:

“Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”

Rất quý trọng tình nghĩa cho nên biết “quý công cầm vàng những ngày lặn lội”:

 “Cầm vàng mà vội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”

Những câu viết hết sức quyết liệt trong căm thù và chiến đấu cho nên “Biết trồng tre chờ ngày thành gậy – đi trả thù mà không sợ dài lâu”:

“Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy gặp đâu đánh què”

Tư tưởng “Đất Nước là của Nhân dân” được thể hiện không chỉ ở nội dung, mà còn ở hình thức nghệ thuật.

Nhân dân đã gây dựng nên Đất Nước bằng mồ hôi, xương máu của mình. Nhân dân cũng ghi lại dấu vết cuộc đời mình ở mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất. Nói cách khác, là những thắng cảnh của Đất Nước đều là biểu tượng cho cuộc đời, số phận của nhân dân. Nhân dân cũng tạo nên những giá trị tinh thần lưu truyền từ đời này qua khác. Không phải ai khác, chính nhân dân là những người không tiếc xương máu, sẵn sàng đứng lên bảo vệ đất nước trước hiểm họa xâm lăng.

Hình thức nghệ thuật cũng làm sâu sắc thêm cảm nhận về đất nước. Ở đoạn thơ, tác giả đã sử dụng nhiều chất liệu văn hóa dân gian. Những hình ảnh thơ được lấy từ đời sống bình dị, quen thuộc. Tuy nhiên chất cổ điển và hiện đại luôn gắn bó, hòa quyện trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.

Tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã được nảy nở từ rất lâu trong lịch sử dân tộc; nó được phát triển, nâng cao qua nhiều thế hệ từ Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đến Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu,… Với Nguyễn Trãi thì việc chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân… Đến Phan Bội Châu tư tưởng ấy được nâng cao hơn; mang ý nghĩa sâu sắc hơn “Dân là dân nước – nước là nước dân”.

Nhưng phải đến thời đại của chúng ta, cuộc cách mạng tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ đã đưa đến những nhận thức sâu sắc về nhân dân và tư tưởng yêu nước, mang tính dân chủ cao. Có thể nói qua những thử thách to lớn của nhân dân, những hi sinh lớn lao và phẩm chất cao cả của nhân dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập và bảo vệ đất nước. Tư tưởng ấy đã được tập trung và thấm thía trong tác phẩm của các nhà thơ trẻ thời kì chống Mỹ, Phạm Tuấn Duật, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, và đặc biệt là Nguyễn Khoa Điềm với “Trường ca Mặt đường khát vọng”.

  • Kết luận:

Trong chương V – Đất Nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo các chất liệu của ca dao, dân ca, những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết,… Nói rộng ra là vốn văn hóa dân gian, có khi nhà thơ lấy một phần của câu cao dao nhưng phần nhiều là sử dụng các hình ảnh, mô tiếp nghệ thuật của ca dao, cổ tích, truyền thuyết để tạo nên những câu thơ, ý thơ của mình. Có thể nói hầu như ở câu thơ nào, ý thơ nào, chúng ta cũng bắt gặp những chất liệu của văn hóa dân gian nhưng nó đã được tái tạo qua cách tư duy và liên tưởng mới mẻ. Chính vì vậy, khi đọc những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm chúng ta nhận thấy những hình ảnh độc đáo, mới lạ nhưng vẫn hết sức quen thuộc, gắn bó.

Phân tích đoạn trích Đất nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang