cam-nhan-ve-dep-tinh-cach-buong-binh-va-tinh-yeu-thuong-cha-sau-dam-cua-nhan-vat-be-thu

Cảm nhận vẻ đẹp tính cách bướng bỉnh và tình yêu thương cha sâu đậm của nhân vật bé Thu

Cảm nhận vẻ đẹp tính cách bướng bỉnh và tình yêu thương cha tha thiết của nhân vật bé Thu

  • Mở bài:

Chiến tranh từ bao đời nay luôn đồng nghĩa với sự mất mát, chia ly, đau thương, đỗ vỡ, tàn phá, nước mắt… Cũng viết về đề tài quen thuộc ấy. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng với truyện ngắn “Chiếc lược ngà” không chỉ góp thêm một tiếng nói tố cáo tội ác của bọn xâm lược Mỹ mà còn đem đến cho chúng ta sự rung động về một đề tài rất hạn hữu: tình cha con. Có thể nói hình ảnh cô bé Thu hồn nhiên, ương bướng, ngang ngạnh, có tình yêu thương cha sâu đậm, một  nhân vật chính trong tác phẩm, đã để lại nhiều thiện cảm trong lòng độc giả.

  • Thân bài:

Cốt truyện xoay quanh đời sống tình cảm của gia đình người cán bộ cách mạng – ông Sáu. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến. Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm cho ông Sáu không còn giống với người trong ảnh mà em đã biết từ trước.

Bé Thu đối xử với cha như người xa lạ, nhất định không gọi ông Sáu là ba. Đến khi nhận ra, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong lòng em thì cũng là lúc ông Sáu phải trở lại chiến khu. Ở căn cứ, ông Sáu dồn hết tình thương và nỗi nhớ vào việc làm chiếc lược ngà để tặng con gái. Trong một trận càn, anh hy sinh. Trước lúc nhắm mắt, anh còn kịp trao cây lược cho người bạn nhờ gởi lại cho con.

Tình huống truyện éo le, trớ trêu đã gây nhiều nỗi xúc động trong lòng người đọc. Điều đó giúp ta hiểu rằng: mặc dù chiến tranh có xảy ra thì đời sống tinh thần người Việt luôn được giữ gìn, dù cho chiến tranh có khốc liệt đến đâu thì cũng không thể thay đổi được tình cảm con người, nhất là tình cha con. Qua tác phẩm “Chiếc lược ngà”, chúng ta thấy được bé Thu là một đứa bé có cá tính nhưng rất giàu tình thương cha, một tình thương mãnh liệt, cao độ.

Trước hết, Thu là một đứa trẻ hồn nhiên, thơ dại nhưng rất mạnh mẽ. Qua lời người kể chuyện, ta thấy hình ảnh “một đứa bé độ tám tuổi, cắt tóc ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chơi dưới bóng cây xoài trước sân nhà” là biểu hiện của nhân vật bé Thu đáng yêu.

Từ lúc ông Sáu đi kháng chiến, Thu chưa một lần gặp ba, mấy lần chị Sáu có lên cứ thăm anh nhưng đường xa, lại nguy hiểm nên không thể mang con theo. Trong lòng Thu luôn gìn giữ hình ảnh của cha như tấm hình má nó đưa nó và một lòng tin tưởng và tự hào về ba nó lắm. Thu thương cha như thế. Ta tưởng chừng như khi được gặp cha, nó sẽ bồi hồi, sung sướng và sà vào vòng tay của ba nó nũng nịu với tình cảm mãnh liệt hơn bao giờ hết.

Nhưng không,Thu đã làm cho người đọc phải bất ngờ qua hành động quyết liệt không chịu nhận ông Sáu là ba. “Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn…ngơ ngác, lạ lùng…”. Khi ông Sáu đến gần, giọng lặp bặp run run: “Ba đây con! Ba đây con” thì “Con bé thấy lạ quá, mặt bỗng tái đi,rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má !”. Đó cũng là phản ứng bình thường của một đứa trẻ khi bất ngờ gặp người  lạ tỏ ra thân quen với mình. Điều đó khiến cho ông Sáu chạnh lòng.

Suốt ba ngày, ông Sáu chẳng đi đâu xa, muốn ở bên con vỗ về, chăm sóc, bù đắp cho con sự thiếu thốn tình cảm. Song, anh càng xích lại gần thì nó càng tìm cách xa lánh, nhất định không gọi một tiếng “ba”. Thu cố ý đối xử lạnh nhạt và xa lánh anh. Em nhất định không gọi ông Sáu là “ba” mà cứ nói trổng, nói bóng gió mặc cho mẹ và bác Ba có bắt buộc và dọa nạt.

Tưởng chừng như những việc làm ấy cho chúng ta thấy Thu là một đứa bé không biết nghe lời. Nhưng không! Điều đó càng thể hiện rằng Thu rất yêu ba nó cả. Vì thế mà Thu mới tỏ ra lạnh nhạt với ông Sáu. Thu không muốn gọi ông Sáu là “ba” chỉ tiếng gọi thiêng liêng ấy Thu chỉ dành cho duy nhất một người mà nó tôn kính.

Những ngày kế tiếp, Thu vẫn bướng bình với ông Sáu. Nó nhón gót lấy vá, múc từng vá nước trong nồi cơm ra để tránh bị nhão, khỏi bị má đánh đòn chứ nhất định không gọi ông Sáu là “ba”. Trong bàn ăn, Thu không chấp nhận cái trứng cá mà ông Sáu gắp cho, nó dùng đũa xoi vào chén cơm rồi bất thần hất cái trứng ra khỏi chén. Những biểu hiện ấy cho thấy Thu ương ngạnh biết bao.

Nguyên cớ nào khiến cho bé Thu trở nên cố chấp như vậy. Dù mọi người đã hết lời giải thích nhưng nó vẫn hông tin rằng đó là ba mình. Ngay khi cả bác Ba, cả mẹ – những người mà Thu tin tưởng nhất đều khẳng định ông Sáu là ba của Thu? Việc Thu nói năng cộc lốc, cư xử thô lỗ, thái độ ương ngạnh là không đáng trách.

Thu không tin ông Sáu là ba chỉ vì vết sẹo làm cho anh khác với người trong hình mà em đã được biết. Quả thật, chiến tranh không những làm biến dạng con người mà còn gây ra những cảnh ngộ éo le, những nỗi đau gia đình chua xót. Phản ứng tâm lý của em là hoàn toàn tự nhiên, nó còn chứng tỏ em có bản lĩnh riêng, tình cảm sâu sắc, chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó là ba, người mà em yêu kính. Trong cái “cứng đầu” của em có ẩn chứa cả sự kiêu hãnh của trẻ thơ về một tình yêu dành cho “người cha khác” – người trong tấm hình chụp chung với má.

Dõi theo tác phẩm, ta thấy Thu còn là một đứa trẻ có tình thương cha sâu đậm, thiết tha. Bị ông Sáu đánh, Thu bỏ về nhà ngoại. Trong đêm đó, nó đã được ngoại giải thích về vết sẹo làm thay đổi gương mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu nay đã được giải tỏa và ở Thu nảy sinh một trạng thái ân hận và hối tiếc: “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Đáng lẽ hai ngày ông Sáu được nghỉ phép nó đã được nũng nịu với ba, vòi vĩnh ba kết tóc. Nhưng nó lại không chịu gọi một tiếng “ba”.

Lúc ấy, nhớ lại ánh mắt giận dữ của ông Sáu khi đánh nó, nụ cười chua xót khi nó không chịu gọi “ba”, Thu cảm thấy hối hận đến nhường nào. Nó đứng ở góc nhà, tựa cửa, đôi mắt buồn… Đâu rồi sự ương ngạnh, bướng bỉnh mà thay vào đó là ánh mắt ánh lên sự hồn nhiên của trẻ thơ.

Tình yêu ba trong bé Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường trong nỗi đau vì không được con đón nhận. Bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu trong “vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Bà ngoại đã giúp bé Thu hiểu ra tất cả mọi điều, phá tan sự hoài nghi trong nó, nhận ra những sự thay đổi trên khuôn mặt ông Sáu. Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em với cái nhìn trìu mến, giọng nói ấm áp “thôi, ba đi nghe con!”.

Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả ông Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét “Ba…a…a…ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”.

Đi liền với tiếng gọi đẫm đầy nước mắt là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của Thu: chạy xô tới, nhảy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má,khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi… Nó thấy hối hận, thấy thương ba nó vô cùng và bằng tất cả sức lực nhỏ bén nó muốn níu giữ ba nó ở lại một cách vô vọng. Nó biết ba nó phải đi, nhất định phải đi vì nhiệm vụ cách mạng đang chờ. Tuy biết thế nhưng nó vẫn cố làm điều gì đó để thể hiện tình yêu ba nó một cách nồng nhiệt nhất.

Trước cảnh chia li, bến sông bỗng trở nên nặng nề. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình”. Ai cũng thấu hiểu cho nghịch cảnh ấy, chỉ biết cảm thông và động viên nhau.

Ở nhân vật bé Thu, cách bộc lộ tình cảm dường như thật khác so với những đứa bé cùng tuổi: dồn nén, vỡ òa, giữ chặt, không thể cắt rời. Cách biểu hiện ấy khiến người đọc không ai là không ngăn được xúc động trong lòng. Đến bác Ba, người kể chuyện, cũng phải thừa nhận rằng như “có ai đó nằm chặt trái tim mình”.

Qua những biểu hiện tâm lí và hành đông của bé Thu,người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi của bé Thu. Sự cứng đầu, tưởng như ương ngạnh ở Thu là biểu hiện của một cá tính mạnh mẽ (là cơ sở để sau này trở thành một cô giao liên mưu trí, dũng cảm). Tác giả đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến,trân trọng những tình cảm trẻ thơ. Phải là người từng trải, sống hết mình vì kháng chiến thì Nguyễn Quang Sáng mới sáng tạo được hình ảnh nhân vật đến mức chân thực như vậy.

Truyện còn lôi cuốn độc giả, bởi nghệ thuật kể chuyện của nhà văn. Một trong những điểm tạo nên sự hấp dẫn của truyện “Chiếc lược ngà” là Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng được một cốt truyện khá chặt chẽ, có những tình huống bất ngờ nhưng hợp lý: bé Thu không nhận ra ông Sáu vì khi về thăm nhà rồi lại biểu lộ tình cảm nồng nhiệt, đầy xúc động với người cha trong lúc chia tay.

Sự bất ngờ càng gây hứng thú cho người đọc khi hiểu được tính hợp lý của các sự việc tưởng chừng mâu thuẫn. Ngoài ra nghệ thuật miêu tả tâm lý trẻ thơ cũng rất độc đáo. Một bé Thu bướng bỉnh, cá tính nhưng lại giàu tình thương với cha mình.

Tình huống truyện ở đây mang đầy kịch tính chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ, ngẫu nhiên song lại rất phổ biến, những tình huống đầy éo le mà chúng ta thường gặp trong chiến tranh. Song đặt các nhân vật của mình vào các tình huống ấy, nhà văn muốn khẳng định và ngợi ca: tình cha con thiêng liêng, sâu nặng như một giá trị nhân bản sâu sắc. Tình cảm ấy càng cao đẹp trong hoàn cảnh chiến tranh.

  • Kết bài:

Câu chuyện kết thúc nhưng trái tim người đọc mãi còn thao thức. Cuộc chiến còn kéo dài, Thu sẽ phải tiếp tục chiến đấu. Ông Sáu đã nằm lại với đất và ngọn lửa hận thù trong bé Thu vẫn còn rực cháy. Kẻ thù tàn bạo có thể giết chết người em yêu quý nhất nhưng không thể nào hủy diệt được tình yêu thương mà em đã tha thiết dành tặng cho cha.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang