phan-tich-hinh-tuong-con-song-da-trong-tuy-but-song-da-cua-nguyen-tuan

Phân tích vẻ đẹp hình tượng con sông Đà trong tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân

Phân tích vẻ đẹp hình tượng con sông Đà trong tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân

  • Mở bài:

Người lái đò sông Đà là bài tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân. Tác phẩm là thành quả chuyến đi gian khổ và hào hứng của Nguyễn Tuân lên miền đất Tây Bắc xa xôi và rộng lớn những năm 1958 – 1960. Chuyến đi không chỉ nhằm thỏa mãn niềm khát khao xê dịch mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng trong vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, phát hiện thứ vàng mười đã qua thử lửa của tâm hồn con người Tây Bắc trong cuộc sống hằng ngày của họ. Đặc biệt, hình tượng con sông Đà đã được nhà văn khắc họa hết sức chi tiết, trân trọng và đầy cảm phục.

  • Thân bài:

Hình tượng con sông Đà kì vĩ và trái tính được dựng lên từ lời đề từ đầu tác phẩm: “Chúng thủy giai đông tầu – Đà Giang độc bắc lưu”. Lời đề từ ngay lập tức khơi gợi hứng thú khám phá và chiêm ngưỡng của một nhà văn suốt đời tìm kiếm cái Đẹp và sự độc đáo. Nhưng khi mượn câu thơ xưa làm lời đề từ, có lẽ tác giả Người lái đò sông Đà không chỉ muốn nhắc đến sự ngược ngạo của dòng sông mà còn nhằm khẳng định cá tính độc đáo của mình trong dòng sông văn chương, đó là văn phong đầy sáng tạo của một nhà văn có y thức sâu sắc về cái Tôi cá nhân, về Bản Ngã, về cá tính riêng trong sáng tạo nghệ thuật. Lời đề từ do đó đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của tùy bút, đó là tình yêu đắm say, tha thiết của nhà văn với thiên nhiên và con người trên dòng sông Đà.

Qua ngòi bút của một nhà văn luôn khám phá thế giới ở phương diện văn hóa, thẩm mĩ, trong tùy bút Người lái đò sông Đà, dòng sông Đà đã hiện lên như một công trình mĩ thuật kì vĩ, tuyệt vời của tạo hóa với hai ấn tượng sâu đậm: dữ dằn, hung bạo và thơ mộng, trữ tình.

Trước hết, sông Đà được nhìn thấy là một con sông hung bạo, dữ dằn. Một trong những hình ảnh đầu tiên gợi lên sự hùng vĩ sông Đà chính là cảnh đá bờ sông dựng vách thành. Nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh vách thành đã phần nào thể hiện sự vững chãi, thâm nghiêm và những sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của sông Đà với vách đá như thành cao, vực thẳm như hào sâu. Ở chỗ đôi bờ xích gần nhau, làm cho lòng sông hẹp lại như cái yết hầu thắt giữa hai vách đá dưng đứng hiểm trở. Hẹp đến nỗi mà “lúc đứng ngọ mới nhìn thấy ánh mặt trời”, có thể “nhẹ tay mà ném hòn đá qua bên kia vách”. Ở đây “con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia”. Ấn tượng hơn nữa là việc “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đang ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cảnh cửa sổ nhà nào ở tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện”.

Nghệ thuật miêu tả sự vật thông qua cảm giác rất quen thuộc của Nguyễn Tuân đã được thể hiện độc đáo khi nhà văn tạo ra ấn tượng tương phản của xúc giác, tạo ra ấn tượng đặc biệt cho thị giác khi lấy hè phố tả mặt sông. Lấy nhà cao gợi ra vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối, lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền trôi từ ngoài vào khúc sông có đá dựng vách thành. Ở đoạn này tác giả đã dùng tri thức ngược sáng của điện ảnh để cảm nhận, tạo cho người đọc một ấn tượng về vẻ đẹp của sự hùng vĩ mà thiên nhiên Tây Bắc đã mang lại.

Sông Đà hung bạo ở cái dữ dằn của gió và nước. Lại qua quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số, gió phối hợp với nước, với đá, với sóng tạo nên những cơn xoáy thật kinh hãi. Cách nhịp ngắt ngắn, nhanh, dồn dập, sự xuất hiện dày đặc các thanh sắc, những hình ảnh điệp nối tiếp luân chuyển, thế chỗ nhau trong cụm từ ngữ hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió… đã tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió và đá sông Đà.

Động từ xô điệp lại trong cả ba vế câu gây ấn tượng về những chuyển động vĩnh hằng và sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên, ghềnh thác; kết cấu ngôn ngữ đặc sắc như mô phỏng hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều ngang, vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, trùng điệp ghê rợn trên măt ghềnh. Từ láy gùn ghè và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng như đòi nợ xúyt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn, lì lợm và cuồng bạo của dòng sông ngày đêm hăm dọa, uy hiếp con người.

Sông Đà hung bạo hơn nữa là ở những cái hút nước giống như những cái giếng bê tông người ta thả xuống để chuẩn bị làm móng cầu. Một loạt những so sánh sống động đã được vận dụng.  “Trên những cái hút nước ấy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn”. Nước ở đó cứ “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” có lúc lại nghe rờn rợn như tiếng “rót dầu sôi”. Đó là những hình ảnh và âm thanh cho thấy cả sức mạnh và sự hung bảo của hút nước.

Từ láy tượng hình lừ lừ, từ láy tượng thanh tăng nghĩa ặc ặc cùng những chi tiết so sánh mang sắc thái nhân hóa khi miêu tả nước thở và kêu như cửa cống cái…, tất cả đều góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ đến ghê người. Đúng là con Sông Đà không khác gì một loài hung thú đi đến đâu là gieo rắc hiểm nguy đến đó. “Cho nên không một chiếc thuyền nào dám men gần cái hút nước ấy… Bè gỗ nghênh ngang qua đây vô ý là bị cái hút nước đó lôi tuột xuống, có chiếc thuyền bị nó giồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm dưới lòng sông đến mươi phút sau, mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Đó là những hình ảnh chỉ có trong tưởng tượng nhưng lại đưa đến một ấn tượng thật sâu đậm vè những sức mạnh khủng khiếp của hút nước sông Đà. Cách so sánh, ví von, mô tả của tác giả gây cảm giác rất mạnh làm cho người đọc như nghe thấy, nhìn thấy được tận mắt cái hung dữ của Sông Đà mà thót tim lại.

Nhưng con Sông Đà hung bạo nhất có lẽ ở mấy chục con thác đá tạo thành các thạch thủy trân vô cùng hiểm trở với biết bao cửa tử. Sông Đà xuất hiện trong diện mạo và tâm địa của thứ kẻ thù số một của con người. Trước hết, là âm thanh của tiếng thác gào rùng rợn, hoang dã: Con Sông Đà đã trở thành một loại thủy quái vừa hung ác, vừa nham hiểm. Còn xa lắm mới đến cái thác dưới nhưng đã thấy tiếng nước réo gần mãi lên, réo to mãi lên. Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”.

Qua so sánh, tiếng thác đá sông Đà được hiện lên như những âm thanh man dại, bản năng của một loài động vật hung dữ đang cuồng loạn tìm lối thoát thân, lại kết hợp với âm thanh của những thân cây vầu, tre khô, rỗng, nổ dữ dội trong lửa, cách miêu tả ấy khiến âm thanh của thác đá không chỉ được cảm nhận bằng thính giác, không chỉ được hình dung qua trí tưởng tượng mà còn được gợi tả qua những ấn tượng đặc biệt sống động của thị giác, xúc giác.

Ở đoạn văn này, tác giả đã huy động rất nhiều biện pháp nghệ thuật như: nhân hóa, liên tưởng, so sánh, sử dụng động từ mạnh làm cho hình tượng con sông Đà thật ghê rợn như một nhân vật mang tâm địa hiểm ác với cái kiểu khôn khéo, ranh ma. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến thác nước sông Đà thực sự trở thành một sinh thể sống đang giận dữ gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện.

Sự tài hoa tinh tế của Nguyễn Tuân còn thể hiện qua cách nhà văn dùng một hệ thống những từ ngữ gợi tả âm thanh theo những cung bậc tăng dần cả về sắc thái cảm xúc và âm lượng để vừa miêu tả sống động sự đe dọa hung hãn của dòng sông, vừa gợi tả khoảng cách ngắn dần giữa người quan sát với thác đá sông Đà; mặt khác, đây cũng là cách làm tăng dần cảm giác hãi hùng, hồi hộp đầy hứng thú cho người đọc.

Sông Đà hung bạo và dữ dằn đến còn ở những cửa tử đang mai phục ẩn nấp để gieo rắc kinh hoàng cho ông lái đò. Đá ở đây chia thành ba tuyến và năm cửa, bốn cửa tử và duy nhất chỉ một cửa sinh. Lòng sông thì trắng xóa làm nổi bật những tảng đá dàn bày thế trận, tảng nào, hòn nào, “trông cũng ngỗ nghịch” và như những vị tướng “có vị trông oai phong lẫm liệt”; “có vị thì như đang hất hàm bắt cái thuyền phải xưng tên xưng tuổi trước khi giao chiến”. Có vị “lại lùi một chút và thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”.

Hình ảnh mặt đá được lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về sóng, về gió, về bọt nước trào sôi mãnh liệt, gợi tả làn hơi nước như mờ đi trên mặt sóng, trên một diện rộng mênh mông của mặt sông; cùng với hình ảnh chân trời đá, câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà ngay trong những ấn tượng đầu tiên khi vừa gặp mặt. Đá sông Đà cùng với nước, với sóng và gió kết hợp với nhau cùng lúc tấn công uy hiếp con người đã được nhà văn miêu tả qua một hình ảnh nhân hóa đặc sắc

Những tri thức về quân sự, về võ thuật, thể dục thể thao, điện ảnh… của tác giả được dịp ném ra để diễn tả sự độc ác, xảo quyệt hết sức nguy hiểm của con thác. Một loạt những thuật ngữ của quân sự, thể thao, võ thuật như thạch trận, cuộc giáp lá cà, hàng tiền vệ, boong ke, pháo đài…, một hệ thống dày đặc những động từ mang sắc thái nhân hóa đặt trong những nhịp câu ngắn, nhanh, dồn đập.

Đang mai phục, đột nhiên đá nhổm cả dậy vồ lấy con thuyền nơi khúc sông ngoặt, khi thì nó lại tỏ ra sơ hở để dụ con thuyền vào rồi bất ngờ quay lại đánh quật vu hồi. Khi đã giáp lá cà thì nó đâm thẳng vào hông ông lái đò, bẻ gẫy cán chèo, rồi đá trái thúc gối vào bụng, giở đủ đòn âm, đòn tỉa, rồi túm lấy thắt lưng đòi lật ngửa bụng ông lái đò trên trận nước. Nó vừa đánh vừa reo hò la hét vang động cả một vùng sông nước hoang vu.

Nghệ thuật nhân hóa cùng những từ láy gợi hình đầy sức biểu cảm và nhất là những tính từ chỉ tính cách, thái độ, cảm xúc của con người đã giúp Nguyễn Tuân làm hiện lên một trong những phần khủng khiếp của sông Đà, đó là thác đá trên dòng sông. Kết hợp với sóng gió, với nước thác, đá sông Đà không im lìm và bất động như đặc tính vốn có tự ngàn năm mà thét gào sống động; không vô tri mà ác hiểm, dữ dằn, đá sông Đà đã không chỉ lộ diện mạo mà cả tâm địa của thứ kẻ thù số một của con người. Tính cách hung bạo của sông Đà cho thấy thiên nhiên Tây Bắc thật hùng vĩ và tình yêu của Nguyễn Tuân đối với Sông Đà và thiên nhiên đất nước thật bao la và bao dung.

Con sông Đà thơ mộng, trữ tình chảy trở thành cảm hứng lãnh mạng chảy qua trang văn của Nguyễn tuân. Ông luôn có xu hướng tạo ra những ấn tượng mạnh mẽ bởi sự tương phản. Trong tùy bút Người lái đò sông Đà, sự tương phản hiện hữu ngay trong đối tượng miêu tả bởi làm nên dòng sông Đà thực sự, ngoài chất hung bạo, không thể không nhắc đến chất thi vị trữ tình đằm thắm. Tác giả tha thiết gọi con sông Đà là cố nhân đi xa thì nhớ nhung, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, dòng sông Đà đã bất ngờ đổi dòng êm đềm như một giấc mơ, dịu hiền như một miền cổ tích.

Và vì yêu sông Đà nên tác giả không bỏ qua cơ hội ngắm nhìn “cái dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình kia…”. Đó là lúc nhà văn nhìn con Sông Đà bằng con mắt thẩm mỹ văn hóa để phát hiện ra những vẻ đẹp và sắc màu đa dạng của con Sông Đà chảy dọc suốt miền Tây Bắc này.

Ấn tượng nhất là ở những quãng yên tĩnh, thì Sông Đà quả thật rất thơ mộng như một người đàn bà kiều diễm với vẻ đẹp “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Chính nhịp câu, lời văn và nghĩa chữ đã góp phần gợi tả những nét thi vị thật đặc biệt của dòng sông. Câu văn rất dài chỉ có một dấu ngắt duy nhất kết hợp với điệp ngữ tuôn dài, tuôn dài…

Những câu văn mềm mại vừa gợi tả sinh động độ dài của dòng sông, vừa đem đến cảm giác về sự liền mạch bất tận, gợi hình ảnh dòng sông uốn lượn tuôn chảy từ những dãy núi hùng vĩ của vùng biên giới Tây Bắc, miên man chảy xuống đồng bằng, lặng lẽ hòa vào sông Hồng rồi tha thiết đổ ra biển. Những thanh bằng liên tiếp ở đầu câu văn cũng làm tăng thêm sự yên ả, êm đềm, bình lặng cho dòng sông khúc hạ nguồn. Khi so sánh dòng sông như một áng tóc trữ tình, nhà văn đã đem đến cho sông Đà nét mềm mại, đằm thắm, vẻ duyên dáng đầy nữ tính, nhưng lại không làm mất đi vẻ đẹp hùng vĩ, lớn lao của dòng sông.

Nghệ thuật nhân hóa đã được mở ra tuyệt đối làm người đọc dường như không còn nhận ra đây là con sông nữa mà là một mỹ nhân đang làm duyên làm dáng với Tây Bắc. Thật gợi cảm biết bao! Trữ tình và đáng yêu hơn nữa là màu sắc của con sông Đà. Nguyễn Tuân cũng đã nhận ra những sắc màu khác nhau của Sông Đà theo từng mùa mang vẻ đẹp riêng.

Qua làn mây mùa xuân, Sông Đà xanh màu ngọc bích. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, không có sự pha tạp có thể hiểu là trong vắt chứ nó không gợn thứ sắc màu đùng đục như màu xanh canh hến của sông Gâm và sông Lô. Qua ánh nắng mùa thu “Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bần đi vì rượu bữa”. Cách nhân hóa và so sánh này tạo cho người đọc không ghê rợn trước màu đỏ mà ngược lại rất thích thú bởi màu nước sông Đà mang vẻ đẹp của màu đỏ rất đáng yêu trên mặt người “bầm đi vì rượu bữa”.

Cách miêu tả của Nguyễn Tuân đã cho thấy vẻ đẹp của sông Đà làm say mê trái tim nghệ sĩ trước hết vì nó là vẻ đẹp của đất nước Tổ quốc bao la, sau nữa vì nó gắn bó gần gũi thân thiết với cuộc sống con người. Nhà văn của những vẻ đẹp vang bóng một thời nay đã có sự thay đổi cơ bản trong quan niệm thẩm mĩ: Cái đẹp không còn cô đơn lạc lõng, xa xôi, cái đẹp hiện ra ấm áp giữa cuộc đời bình dị, cái đẹp hiện diện ngay trong cuộc đời thường của những người lao động bình thường.

Sông Đà thơ mộng và đáng yêu hơn nữa khi Nguyễn Tuân dùng những hình ảnh dịu dàng trong sáng nhất để tả đôi bờ sông Đà. Đó là thời điểm cho câu chữ Nguyễn Tuân lai láng chất thơ ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông, bằng cái nhìn và tình cảm của một người tự nhận sông Đà như một “cố nhân”. Không gian lắng đọng trong vẻ đẹp của “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”.

Vẻ đẹp ấy như trang nghiêm trong mạch Đường thi cổ điển, vừa lắng đọng hoài vọng về một thuở vàng son của xứ sở. Hai chữ “Sông Đà” điệp lại cuối mỗi vế câu đẳng lập như nhịp lên niềm say mê phấn khích, như nhân lên những khoảng không gian phóng khoáng của bến bãi Đà giang tạo cảm giác như nhà văn đang hân hoan ngợp giữa không gian sông Đà mênh mông để rồi say đắm òa vào những không gian ấy, thậm chí không kịp bình tĩnh để quan sát bằng lí trí, để miêu tả bằng những vị ngữ cụ thể, tất cả đều bị cuốn đi theo những xúc cảm dồn dập, gấp gáp, cuốn đi theo những khao khát, say mê

“Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm lộc đâm chồi. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn đã để cho dòng cảm xúc dào dạt thốt lên thành lời đối thoại im lặng với thiên nhiên, bờ bãi ven sông, dường như con người muốn hoà vào cùng cảnh vật, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp đầy sức cuốn hút của dòng sông.

Cách so sánh của Nguyễn Tuân đã không hề làm rõ, làm hiện hữu hình ảnh của bờ sông, cũng không làm cụ thể hóa những khái niệm trừu tượng mà thậm chí chỉ càng đẩy dòng sông trôi xa thêm vào miền mộng ảo, phiêu diêu trong cõi hồng hoang xa xôi, trong thế giới cổ tích huyền hoạc của tuổi thơ, và chính trong thế giới ấy mà người đọc cảm nhận rõ hơn sự lặng lờ, hoang dại của một dòng sông trong trẻo, êm đềm.

  • Kết bài:

Ngòi bút nhà văn tung hoành trong sự say sưa khám phá cội nguồn, kể về lịch sử dòng sông gắn với cuộc sống và con người Tây Bắc, những người đã đón nhận những tặng vật hào phóng của sông Đà. Cảm xúc từ thực tại của Nguyễn Tuân còn khơi nguồn cho những mơ ước mang tính dự báo về tương lai, biến sức mạnh của dòng sông trái tính trái nết thành nguồn thủy điện dồi dào. Rõ ràng, thực tại cuộc sống mới đã giúp cho Nguyễn Tuân có những dự cảm chính xác, có niềm tin vững chắc vào những con người đang xây dựng một chế độ mới, đem lại sinh khí mới cho cuộc sống ở sông Đà. Hình tượng con sông Đà vừa hung bạo vừa trữ tình vì thế mà chảy mãi trong lòng người đọc mọi thế hệ.

Bài viết tham khảo:

Trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân viết: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá […] mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.
Anh/ chị hãy cảm nhận về hình tượng con sông Đà ở đoạn trích trên; từ đó nhận xét về chất tài hoa uyên bác trong tùy bút của Nguyễn Tuân được thể hiện qua đoạn trích.

BÀI LÀM

  • Mở bài:

Trong bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà” của mình, Nguyễn đã đưa người đọc cùng ông phiêu du trên một “dải sông Đà bọt nước lênh đênh/bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” để khám phá dòng sông mến yêu từ nhiều góc độ, để từ đó làm nổi bật sự hùng vĩ cũng như những nét cá tính độc lạ mà chỉ sông Đà mới có, qua đó thể hiện sự tài hoa uyên bác trong ngòi bút của mình, tiêu biểu nhất là đoạn trích sau: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành […] Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”.

  • Thân bài:

1. Khái quát tác giả, tác phẩm:

Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ lớn, nhà văn hóa lớn, có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học nước nhà, đặc biệt là ở thể tùy bút. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân có thể tóm gọn trong một chữ “ngông”. Thể loại sở trường của ông là tùy bút, với rất nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó “Người lái đò Sông Đà” có thể được xem là một trong những áng văn tiêu biểu của ông ở thể loại này. Bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà” được Nguyễn Tuân sáng tác sau chuyến đi thực tế đầy gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn của Tổ quốc, được rút từ tập “Sông Đà”, xuất bản lần thứ nhất vào năm 1960. Bài tùy bút tập trung miêu tả hình tượng con sông Đà và người lái đò vượt thác trên sông Đà, qua đó ngợi ca “chất vàng mười” của thiên nhiên và con người Tây Bắc.

2. Cảm nhận hình tượng con sông Đà qua đoạn trích:

Có thể nói một cách khái quát rằng, ở đoạn trích này, Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút tài hoa và vốn tri thức uyên bác của mình để khắc họa nên một hình tượng sông Đà hùng vĩ và dữ dội, hung bạo và tiềm ẩn vô vàn những hiểm nguy.
Đầu tiên, sự hùng vĩ của con Sông Đà được thể hiện ở cảnh đá bờ sông: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá. Mà nó còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành”. Câu văn mở đầu đoạn: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá” đã hé lộ cho ta thấy rằng: sự hùng vĩ là một đặc trưng nổi bật của sông Đà, trải dài suốt dòng chảy của nó ở thượng nguồn Tây Bắc. Thác đá hùng vĩ, nhưng cảnh đá bờ sông cũng hùng vĩ không kém. Hai bên bờ sông có những vách thành bằng đá rất cao khiến “mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Ở ngay giữa lòng sông lại có “vách đá thành chẹt lòng sông như một cái yết hầu”. Cách so sánh này gợi ta hình dung về những quãng sông hẹp, âm u, tăm tối, thật dễ gây nhiều trở ngại và nguy hiểm cho người lái đò. Hai bờ sông Đà có quãng như sát lại gần nhau, khiến “đứng bên này bờ” chỉ cần “nhẹ tay” là có thể ném hòn đá qua bên kia vách”, “có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ bên này qua bờ bên kia”. Những quãng sông hẹp ấy khiến người ngồi trong khoang đò khi đi qua quãng ấy “đang mùa hè mà cũng cảm thấy lạnh”, và có cảm giác như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mười mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Đấy là một lối liên tưởng độc đáo, liên tưởng nét hoang dã của sông Đà với sự hiện đại của phố phường, khiến ta dễ hình dung hơn về độ sâu hun hút và độ cao dựng đứng của vách sông Đà, truyền cho người đọc cảm giác vừa trầm trồ vừa hãi hùng lo sợ.

Sự hung bạo của sông Đà tiếp tục được đẩy cao hơn trong đoạn văn miêu tả cảnh mặt ghềnh Hát Loóng: Cụm từ ngữ “hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” với nhịp ngắt ngắn, nhanh, dồn dập, hình ảnh điệp nối tiếp luân chuyển, thế chỗ cho nhau đã tái hiện sức mạnh dữ dội của nước, sóng, gió cùng với đá sông Đà. Điệp từ “xô” lặp lại ba lần gây ấn tượng về sự chuyển động khủng khiếp, gợi liên tưởng đến những con sóng chồm lên nhau theo chiều ngang, vút lên theo chiều dọc rồi đổ ập xuống. Từ láy “gùn ghè” thể hiện sự hung hãn, trái tính trái nết của dòng sông, “lúc nào cũng như đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò nào tóm được qua quãng ấy”. Đó là dòng chảy đặc thù của sông Đà, một dòng chảy không hề êm ả, mà trái lại, luôn ầm ào dữ dội với những ghềnh thác bất tận, tiềm ẩn vô vàn những hiềm nguy.

Đem lại ấn tượng mạnh mẽ hơn nữa cho sự hung bạo của sông Đà là hình ảnh những cái hút nước trên sông: Hình ảnh những cái hút nước hiện lên như một con quái vật đang giận dữ với cách so sánh “những cái hút nước” như những “cái giếng bê tông xoáy tít đáy”, so sánh âm thanh hút nước “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Những cái hút nước còn tạo cho người đọc cảm giác hãi hùng khi nhà văn liên tưởng mép rìa của hút nước như “quãng đường mượn cạp ngoài bờ vực”, hình ảnh những con thuyền bị hút nước ấy hút vào, thuyền “trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”, bị dìm dưới lòng sông và mươi phút sau thấy “tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Lối so sánh kết hợp nhân hóa và cường điệu đã cực tả sự hiểm nguy của những cái hút nước trên sông. Có thể xem đoạn văn miêu tả những cái hút nước sông Đà là những thước phim tư liệu quý với hình ảnh và âm thanh sống động chân thực, truyền một cảm giác hãi hùng cho cả những người chưa từng một lần phải chạm mặt với sóng nước sông Đà.

3. Nghệ thuật:

Thành công về mặt nghệ thuật của đoạn trích là ở việc sử dụng nhiều những liên tưởng, so sánh, nhân hóa độc đáo bất ngờ; cách sử dụng từ ngữ mới lạ, điêu luyện; câu văn giàu hình ảnh, nhạc tính; vốn kiến thức uyên bác.

4. Nhận xét về chất tài hoa uyên bác:

Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” nói chung và đoạn trích ở đề bài nói riêng đã thể hiện chất tài hoa uyên bác trong tùy bút của Nguyễn Tuân. Thứ nhất, sự tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân thể hiện ở việc ông luôn tìm đến những đối tượng khác lạ, và qua ngòi bút của mình, ông khiến nó trở nên độc đáo có một không hai. Thứ hai, sự tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân còn thể hiện ở việc ông thích đẩy những gì mình miêu tả đến độ phi thường, tuyệt mĩ, gây ấn tượng và cảm giác mạnh. Thứ ba, sự tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân còn thể hiện ở vốn tri thức phong phú, sâu rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, và ông vận dụng vốn hiểu biết ấy một cách nhuần nhuyễn trong việc xây dựng các hình tượng nghệ thuật. Thứ tư, sự tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân còn thể hiện ở cách dùng từ, đặt câu độc đáo, mới lạ, vốn từ ngữ phong phú; sử dụng nhiều liên tưởng, so sánh bất ngờ.

  • Kết bài:

Tóm lại, qua đoạn trích trên, Nguyễn Tuân đã tái hiện một cách sinh động hình ảnh con sông Đà hùng vĩ và dữ dội chảy dưới bầu trời Tây Bắc. Đoạn trích đã góp phần làm nên sức sống lâu bền cho bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, đồng thời làm cho tên tuổi của nhà văn tài hoa Nguyễn Tuân sống mãi trong lòng người đọc mọi thế hệ.

Bài văn tham khảo:

Trong tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, Nguyễn Tuân viết:
“Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân. […] chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.
(Trích Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 12, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2019, Tr. 191)
Anh/ chị hãy cảm nhận về hình tượng con đò sông Đà ở đoạn trích trên; từ đó nhận xét cái nhìn mang tính chất phát hiện của Nguyễn Tuân về con sông Đà được thể hiện qua đoạn
trích.

BÀI LÀM.

  • Mở bài:

Nếu Nguyễn Tuân trước cách mạng vì bất mãn với xã hội đương thời mà lui mình về quá khứ, tìm nguồn cảm hứng trong cái đẹp của “một thời vang bóng”; thì Nguyễn Tuân sau cách mạng đã mạnh dạn rũ bỏ lớp áo vàng son xưa để hòa nhập với cuộc sống mới của toàn dân tộc, đi tìm cái đẹp trong hiện tại. Hành trình đến với miền Tây Bắc xa xôi vào những năm 60 của thế kỉ trước có thể coi là một cuộc “trở về” của ông để “gặp lại nhân dân”. Trong cuộc hành trình ấy, ông đã bắt gặp được con sông Đà, một đối tượng nghệ thuật độc đáo, dường như được sinh ra để dành riêng cho nhà văn có phong cách đặc biệt này. Đoạn trích đã cho ở đề bài là một “phân cảnh” nhỏ, nhưng đã khiến ta không khỏi ngưỡng mộ trước vẻ trữ tình thơ mộng của dòng sông, qua đó cho thấy cái nhìn đầy tình phát hiện của nhà văn Nguyễn Tuân: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân […] chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.

  • Thân bài:

1. Khái quát tác giả, tác phẩm:

Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ lớn, nhà văn hóa lớn, có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học nước nhà, đặc biệt là ở thể tùy bút. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân có thể tóm gọn trong một chữ “ngông”. Thể loại sở trường của ông là tùy bút, với rất nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó “Người lái đò Sông Đà” có thể được xem là một trong những áng văn tiêu biểu của ông ở thể loại này. Bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà” được Nguyễn Tuân sáng tác sau chuyến đi thực tế đầy gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn của Tổ quốc, được rút từ tập “Sông Đà”, xuất bản lần thứ nhất vào năm 1960. Bài tùy bút tập trung miêu tả hình tượng con sông Đà và người lái đò vượt thác trên sông Đà, qua đó ngợi ca “chất vàng mười” của thiên nhiên và con người Tây Bắc.

2. Cảm nhận hình tượng con sông Đà qua đoạn trích:

Có thể nói một cách khái quát rằng, ở đoạn trích này, Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút tài hoa và vốn tri thức uyên bác của mình để khắc họa nên một hình tượng con sông Đà với vẻ đẹp trữ tình và thơ mộng. Sự trữ tình và thơ mộng của con sông Đà được thể hiện ở hai góc độ: từ trên cao nhìn xuống và khi từ trong rừng đi ra.

Từ trên cao nhìn xuống, tác giả thấy con sông Đà có hai đặc điểm: thứ nhất là dáng hình mềm mại và thứ hai là vẻ đẹp của màu sắc dòng nước biến đổi theo mùa. Đặc điểm thứ nhất, dáng hình mềm mại của con sông Đà được gợi tả qua phép so sánh: “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Câu văn rất dài chỉ có một dấu phẩy duy nhất kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài tuôn dài” vừa gợi tả sinh động độ dài tưởng như bất tận của dòng sông, vừa làm cho dòng sông trở nên êm đềm, mềm mại, kiều diễm và đầy nữ tính như mái tóc của một người con gái đẹp miền tây bắc. Một áng tóc có cả mây trời, có cả hương sắc của hoa ban, hoa gạo lẫn cả khói sương mở ảo, huyền hoặc của núi mèo đốt nương xuân. Thật thơ mộng và trữ tình.

Đặc điểm thứ hai của dòng sông khi từ trên cao nhìn xuống, đó chính là vẻ đẹp của màu sắc dòng nước biến đổi theo mùa. Mùa xuân, dòng nước sông đà xanh màu ngọc bích. Phép so sánh ấy cho ta hình dung về sắc nước trong trẻo. Sắc nước ấy có được là do sông Đà đã chảy qua những vùng núi đá cheo leo nơi thượng nguồn tây bắc. Một màu xanh đặc trưng của sông Đà, khác hẳn với cái màu xanh lờ đờ mờ đục như màu canh hến của sông Gâm, sông Lô. Vào mùa thu, dòng nước sông Đà lại “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về””. Màu chín đỏ ấy là hệ quả của những trận mưa lũ đầu nguồn cuốn phăng đất đá. Cái màu đỏ lừ lừ ấy còn hé lộ cho ta thấy ẩn chứa bên trong dòng chảy êm ả vùng hạ lưu ấy vẫn tiềm ẩn những sức mạnh ghê gớm của một con sông trái chứng trái nết, thoắt hiền lành đấy rồi bỗng chốc lại có thể gắt gỏng thác lũ ngay đấy.

Khi từ trong rừng đi ra, tác giả thấy con sông Đà thật gợi cảm và đầm ấm. Sự gợi cảm đầm ấm của con sông Đà được Nguyễn Tuân làm nổi bật khi ông so sánh việc gặp lại con sông Đà giống như gặp lại một cố nhân: lúc đầu chỉ là cảm giác thèm chỗ thoáng vì ở rừng đi núi cũng đã hơi lâu. Nhưng khi con sông hiện ra trước mắt với bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà, tác giả như vỡ òa trong niềm vui sướng và xúc động: “chao ôi, trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Quả thật, con sông Đà không chỉ có thác lũ, không chỉ biết hung bạo, mà nó còn là một người bạn giàu tình nặng nghĩa: “có những quãng sông rất phẳng lặng, dòng chảy cứ lững lờ như nhớ thương những hòn thác đá xa xôi đã để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”. Lại có những quãng con sông đà thật dễ thương, nó “chầm chậm trôi đi, như thể đang lắng nghe những tiếng nói êm êm của người về xuôi”.

Khi từ trong rừng đi ra, tác giả còn cảm nhận con sông đà thật cổ kính, yên bình qua cái màu nắng tháng ba đường thi yên hoa tam nguyệt há dương châu. Đó là cái nắng vàng tươi gợi cái đẹp vàng son của một thời vang bóng, cái vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên và thật thanh bình.

3. Nghệ thuật

Thành công về mặt nghệ thuật của đoạn trích là ở việc sử dụng nhiều những liên tưởng, so sánh, nhân hóa độc đáo bất ngờ; cách sử dụng từ ngữ mới lạ, điêu luyện; câu văn giàu hình ảnh, nhạc tính; vốn kiến thức uyên bác.

4. Nhận xét cái nhìn mang tính phát hiện về dòng sông:

Nhắc đến con sông Đà, hẳn ai cũng nghĩ ngay đến sự hung bạo, dữ dội với bao ghềnh thác cheo leo, cũng như khi nhắc đến sông Hương, người ta thường nghĩ ngay đến cái dòng chảy lững lờ, cái “khuôn mặt kinh thành” của nó. Tuy nhiên, từ những góc nhìn khác, Nguyễn Tuân đã có những phát hiện thú vị: Thì ra con sông Đà không phải lúc nào cũng dữ dội, cũng trái tính trái nết, không phải lúc nào nó cũng mang diện mạo của một “kẻ thù số một”, mà có lúc nó lại mang một vẻ đẹp thật thơ mộng, trữ tình, lãng mạn đến đắm say, ấm áp đến không ngờ. Dòng sông ấy khi thì mềm mại đầy nữ tính như một áng tóc dài mượt mà của một cô gái đẹp, khi thì đằm đằm ấm ấm như một cố nhân, như một người bạn cũ lâu ngày gặp lại, khi lại toát lên vẻ đẹp cổ kính thanh cao, mang không khí Đường thi. Có thể nói, qua đoạn trích trên, Nguyễn Tuân đã đem đến cho người đọc một trải nghiệm mới mẻ và thú vị về con sông Đà. Qua đó ta thấy được sự công phu trong lao động chữ nghĩa và tình yêu đất nước thiết tha của nhà văn.

  • Kết bài:

Tóm lại, quan đoạn trích trên, Nguyễn Tuân đã tái hiện một cách sinh động hình ảnh con sông Đà thơ mộng và trữ tình chảy dưới bầu trời Tây Bắc. Đoạn trích đã góp phần làm nên sức sống lâu bền cho bài tùy bút “Người lái đò Sông Đà”, đồng thời làm cho tên tuổi của nhà văn tài hoa Nguyễn Tuân sống mãi trong lòng người đọc mọi thế hệ.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang