»» Nội dung bài viết:
Bút pháp tả cảnh bậc thầy của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”.
Không chỉ có những đặc sắc về nội dung mà Truyện Kiều còn mang những nét sáng tạo vô cùng độc đáo về nghệ thuật. Tác phẩm là sự kết tinh các thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại. Về thể loại, tác phẩm được viết dưới hình thức một truyện thơ Nôm với thể thơ lục bát truyền thống quen thuộc. Về ngôn ngữ, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm có vận dụng kết hợp linh hoạt với các ca dao, thành ngữ quen thuộc. Nghệ thuật trong Truyện Kiều đã có bước phát triển vượt bậc: Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách, miêu tả tâm lí nhân vật.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có những đặc sắc nghệ thuật khi tả cảnh với bút pháp tả cảnh ngụ tình sinh động, giúp nhân vật thể hiện cảm xúc, tâm trạng của mình một cách gián tiếp. Tất cả đã làm nên một “Truyện Kiều” với những sáng tạo mới mẻ về hình thức thể hiện.
Lối tả cảnh ước lệ cổ điển.
Đây là lối tả cảnh mang tính cách chủ quan, man mác khắp trong truyện Kiều. Cảnh vật bao giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của nhân vật chính hoặc phụ ẩn chứa trong đó. Nói một cách khác, Nguyễn Du tả cảnh mà thâm ý luôn luôn đem cái cảm xúc của người đối cảnh cho chi phối lên cảnh vật. Điều này khiến cho cảnh vật trở thành linh hoạt như có một tâm hồn hay một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Chính Nguyễn Du đó tự thú nhận sự chủ quan của mình trong lúc tả cảnh qua hai câu thơ:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Trong khuynh hướng này , nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du vượt khác hẳn các thi nhân khác, kể cả những thi sĩ Phương Tây, vốn rất thiện nghệ trong lối tả cảnh ngụ tình. Trong khi các thi sĩ này chỉ đi một chiều, nghĩa là chỉ tìm những cảnh vật nào phù hợp với tâm trạng của con người thì mới ghi vào, còn Nguyễn Du thì vừa đưa cảnh đến tâm hồn con người, lại đồng thời vừa đưa tâm hồn đến với cảnh, tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa cảnh và người, giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một mà hai..
Ví dụ như khi chị em Kiều đi lễ Thanh Minh về, tới bên chiếc cầu bắc ngang một dòng sông nhỏ gần mả Đạm Tiên, thì cả người lẫn cảnh đều cảm thấy nao nao tấc dạ trong buổi chiều tà :
“Nao nao dũng nước uốn quanh
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”.
“Nao nao” chỉ tâm sự con người, nhưng cũng chỉ sự ngập ngừng lãng đãng của dòng nước trôi dưới chân cầu.
Hình ảnh một mảnh trăng khuyết soi nghiêng nhìn Kim Trọng khi chàng nửa tỉnh nửa mờ, chập chờn với hình ảnh Kiều sau lần gặp gỡ đầu tiên:
“Chênh chênh búng Nguyệt xế mành
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu”.
Chàng biếng nhác cả việc sách đèn, để phòng đọc sách lạnh tanh với tiếng gió quạnh hiu phập phồng qua màn cửa:
Buồng văn hơi giá như đồng
Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan
Mành Tương phất phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình.
Rồi những giờ phút thề ước ba sinh đó qua, khi phải tạm xa nhau thì dòng sông kia bỗng sao trở thành kẻ khắt khe để chia rẽ duyên tình:
Sông Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia.
Một đoạn tả cảnh khác, tình người ẩn sâu trong cảnh vật . Đó là cảnh Kim Trọng sau khi hộ tang cha, về tìm lại Kiều nơi vườn Lãm Thúy, nhưng người xưa nay còn thấy đâu, chỉ còn cảnh vườn hoang, cỏ dại lạnh lùng dưới ánh trăng.
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.
Lần thứ hai, Kim Trọng tìm về nhà Vương Viên Ngoại để hỏi thăm Kiều thì cảnh nhà bây giờ thật sa sút , sân ngoài cỏ hoang mọc dại, ướt dầm dưới cơn mưa, tiêu điều như nỗi buồn tênh trong lòng chàng:
Một sân đất cỏ dầm mưa
Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn dường.
Khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, nhìn qua song cửa thấy cảnh biển chiều hôm, với những cánh buồm xa xa lại tưởng tới thân phận bọt bèo không định hướng của mình :
Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Lúc Kiều theo Mó Giám Sinh về Lâm Tri, thì lòng nàng cũng chẳng thực sự là vui mà buồn hiu hắt như hàng lau bên vệ đường:
Gió chiều như gợi cơn sầu
Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu.
Và khi theo Sở Khanh để trốn Tú Bà, thì cảnh một đêm thu có trăng sáng nhưng cũng lạnh lùng cũng chẳng khác chi tâm sự rối bời của Kiều :
Lối mòn cỏ nhạt màu sương
Lòng quờ đi một bước đường một đau.
Lúc thất vọng não nề, muốn gieo mình xuống sông Tiền Đường cho rũ nợ trần, tâm sự Kiều cũng như mảnh trăng sắp tàn, chẳng còn chút gì lưu luyến nơi thế gian:
Mảnh trăng đó gác non đoài
Một mình luống những đứng ngồi chưa xong.
Lối tả chân cảnh vật.
Ngoài lối tả cảnh diễm tình, Nguyễn Du còn điểm trang cho truyện Kiều bằng nhiều bức tranh tả chân, tả rất thực và thuần túy là những họa xinh đẹp, không ngụ tình. Những bức tranh bằng thơ có khi tươi tắn, có khi sầu mộng được viết theo lối văn tinh xảo. Chỉ cần một vài nét phác họa với những điểm chính hiện hữu.
Đây là cảnh một túp lều tranh bên sông vắng lúc hoàng hôn, vừa giản dị, mộc mạc nhưng cũng rất nên thơ:
Đánh tranh chụm nóc thảo đường
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
Hoặc chỉ một vài nét chấm phá mà người đọc đó Hình dung ra cảnh một mái tranh nghèo rách nát tơi tả theo tháng ngày:
Nhà tranh vách đất tả tơi
Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa.
Hoặc bức tranh sơn thủy của một khung trời chiều long lanh phản chiếu trên mặt sông êm ả :
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng.
Hay bóng liễu rủ bên cầu và thướt tha soi bóng trên sông tạo nên một khung cảnh đẹp mộng thơ :
Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Khi chị em kiều đi viếng mộ Đạm Tiên, thì cảnh vật cũng theo đó đìu hiu, ảm đạm: cơn gió đìu hiu lay động một vài cành lau trên vùng cỏ mờ nhạt theo sương chiều :
Một vùng cỏ áy bóng tà
Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
Cảnh thanh tịnh của ngôi chùa Giác Duyên nơi Kiều đó được cứu vớt, mà đường tới thì quanh co theo giải sông, có khu rừng lau như cách biệt với cuộc sống rộn rã bên ngoài:
Quanh co theo giải giang tân
Khỏi rừng lau đó tới sõn Phật Đường.
Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du tuyệt vời đến nỗi Giáo sư Nghiêm Toản đã có nhận định như sau: “trong Đoạn Trường tân thanh, luôn luôn có những bức tranh nho nhỏ như những hạt kim cương rải rác đính trên một tấm thêu nhung” (Việt Nam văn Học Sử Trích Yếu)
Hãy xem cảnh búng trăng chênh chếch soi mình trên sóng nước, đẹp lóng đóng như nỗi tưởng nhớ miên man của Kiều về Kim Trọng sau buổi gặp gỡ lần đầu. Chỉ vài nét đon sơ giữa trăng, nước và sân nhà đó đủ diễn tả một khung cảnh tuyệt nhó đẹp như một bức tranh :
Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước , cây lồng bóng sân.
Lối tả cảnh tượng trưng.
Nguyễn Du cũng rất nhiều khi phô diễn lối tả cảnh tượng trưng, nghĩa là chỉ dùng một vài nét chấm phá, thành một nghệ thuật đó đạt đến mức uyển chuyển và tinh tế
Hãy nghe hai câu thơ :
Vi lô san sát hơi may
Một trời thu để riêng ai lạnh lùng.
Đó là một cảnh một rừng vi lô trong mùa thu xám có gió heo may, lành lạnh. Lối tả cảnh này có thể Nguyễn Du chỉ viết theo nghệ thuật cảm quan của mình chứ không hề nghĩ rằng mình đang tạo ra một lối vẽ cảnh một cách tượng trưng bằng những vần thơ. Mói đến hơn một thế kỷ sau ,tức vào thế kỷ 19, lối tả cảnh tượng trưng nay mới phát triển thật mau tại Pháp mà các nhà phân tích văn học gọi là “Symbolists”. Đó là sự nhận định của Giáo sư Hà Như Chi.
Nên để ý nghệ thuật của Nguyễn Du là mang cái gì rộng lớn mênh mông , để rồi đem vào hàm chứa trong một cái gì nhỏ bé (luận giải của Giáo Sư Hà Như Chi trong Việt Nam Thi Văn Giảng Luận). Trong hai câu thơ trên, “một trời thu” mang một ý niệm không gian rộng lớn bao la, trong khi bốn chữ “riêng ai một mình” lại chỉ một phạm vi nhỏ bé, một tâm tình đơn lẻ cá nhân.
Một vài câu thơ khác cũng mang cùng một khuynh hướng như :
Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng
Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình.
Đó là cảnh mặt trời chiều bâng khuâng nghiêng mình soi bóng trước mái hiên nhà để rồi chuyển sang, ẩn vào tâm tư riêng của một cừi lòng Kiều cụ đơn. (Cần chú ý thêm là cách dựng điệp ngữ một cách tài tình khéo léo của Nguyễn Du, với chữ “nghiêng” và “riêng” được lập đi lập lại nhiều lần mà vẫn cảm thấy hay). Có khi Nguyễn Du lại dùng một lối tả cảnh tượng trưng ngược lại , nghĩa là đem tấc lòng nhỏ bé của con người cho tỏa rộng bay hòa vào cỏi rộng lớn của trời đất.
Hãy xem cảnh Kiều và Thúc Sinh chia tay nhau:
Người lên ngựa kẻ chia bào
Rừng phong thu đó nhuốm màu quan san.
Đó là sự phân ly buồn bã tuy chỉ giữa hai người, nhưng đó làm ảm đạm cả một vùng cảnh vật chung quanh.
Hay cảnh Kiều thất vọng cuộc đời, mở cửa phòng nhỏ bé để gieo mình xuống dòng bao la của sông Tiền Đường :
Cửa bồng vội mở rèm châu
Trời cao sông rộng một màu bao la.
Nói về nghệ thuật tả cảnh tượng trưng này, giáo sư Dương Quảng Hàm đó viết: “tả cảnh thì theo lối phác họa mà cảnh nào cũng linh hoạt”
Lối tả cảnh dùng màu sắc.
Nghệ thuật tả cảnh bằng thơ của Nguyễn Du cũng dùng rất nhiều màu sắc như bức tranh của một người họa sĩ. Trước tiên phải là ánh sáng, một yếu tố cơ bản, rồi sau đó mới tới các màu sắc với sự pha chế sao cho làm nổi được cảnh chính và cảnh phụ .
Hãy xem một cảnh Xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút tả cảnh đầy màu sắc của Nguyễn Du:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Thật là một bức tranh màu sắc thanh nhó tuyệt hảo: trên thảm cỏ xanh mướt bao la, nổi những bông hoa lê trắng tinh. Chỉ có hai màu xanh và trắng như nỗi thanh khiết của tâm hồn chị em Kiều đi dự lễ Thanh Minh. Ở đây cũng cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. Thay vỡ “cành lê điểm một vài bông hoa trắng” thì Nguyễn Du đó viết: “cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Tất nhiên có thể Nguyễn Du đó phải đảo chữ chỉ vì tôn trọng luật “bằng trắc” của thơ lục bát, nhưng cũng phải công nhận đó là một lối đảo chữ tài tình mà không phải ai cũng làm được .
Cũng một cảnh cỏ xanh nữa, nhưng lần này là màu xanh thẫm soi mình cạnh màu nước trong:
Một vùng cỏ mọc xanh rì
Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu.
Hay cảnh lung linh ánh nước soi chiếu mây vàng của hoàng hôn:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng.
Một cảnh khác mà màu sắc lại buồn ảm đạm, chỉ có màu nâu của đất, màu xanh vàng của cỏ úa chen chân bên cái thấp lè tè của gò đất mả Đạm Tiên:
Sè sè nắm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
Nói chung, Nguyễn Du chú trọng nhiều đến màu sắc của thiên nhiên, đặc biệt là của hoàng hôn, của cây cỏ, của trăng và của nước là những màu sắc thi vị, nhưng lại gieo ấn tượng cho một nỗi buồn xa xăm, cũng chỉ vì truyện Kiều mang bản chất nhiều nỗi buồn hơn vui.
Giáo sư Hà Như Chi nhận định về lối dùng màu sắc của cụ Nguyễn Du như sau: “Nguyễn Du khi tả ánh sáng không những chỉ trực tiếp mà tả ánh sáng ấy, mà lại còn tả một cách gián tiếp , cho ta thấy sự phản chiếu trên ngọn cỏ, lá cây mặt nước, đỉnh núi …” (Việt Nam Thi Văn Giảng Luận)
Đúng như thế, Hãy xem cảnh khu vườn với hoa lựu nở đỏ như ánh lửa lập lòe trong mựa hạ, khi mùa nắng đó được đón chào bởi tiếng quyên ca lúc khởi một đêm trăng :
Dưới trăng quyên đó gọi hố
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông.
Lối dùng chữ trang nhã và bình dân trong tả cảnh.
Nguyễn Du là một thi nhân thuộc dòng dõi quan quyền phú quý, nhưng gặp phải cảnh loạn lạc đổi chúa thay ngôi giữa nhà Lê và nhà Nguyễn, đó phải về quê cũ ở Huyện Tiên Điền để ẩn cư. Cụ đó trải qua những ngày sống trong phú quý và những ngày sống thanh đạm nơi thôn dã , nên trong tâm hồn đó thu nhập được hai cảnh sống. Cụ đã hài hòa kết hợp được hai cảnh sống đó, nên trong lĩnh vực văn chương tả cảnh trong truyện Kiều, cụ có khi dùng những chữ thật trang nhã quý phái, có khi lại dựng những chữ thật giản dị bình dân.
Những chữ dựng trang nhó quý phái đă được kể nhiều qua những câu thơ ở trên, thiết tưởng chẳng cần lập lại. Bây giờ chúng ta Hãy xem những chữ rất bình dân mà Nguyễn Du dựng trong lúc tả cảnh.
Vớ dụ chị em Kiều du Xuân ra về thì trời vừa ngả búng hoàng hôn, Nguyễn Du dựng hai chữ “tà tà” chỉ một hành động chậm rãi, có thể là chị em Kiều thong thả bước chân ra về, mà cũng có thể chỉ sự xuống chầm chậm của mặt trời chiều:
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
Thế rồi gặp cảnh mả Đạm Tiên đắp vội , chỉ còn một nắm đất thấp “sè sè” bên đường, chen lẫn vài ngọn cỏ úa :
Sè sè nắm đấ bên đường
Rầu rầu ngon cỏ nửa vàng nửa xanh.
Rồi ngọn gió gọi hồn “ào ào” thổi tới như muốn nhắn nhủ điều chi :
Ào ào đổ lộc rung cây
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Hay cảnh vườn Thúy khi Kim Trọng trở lại tìm Kiều mà không thấy nàng, chỉ thấy cánh én xập xè bay liệng trên mặt đất hoang phủ đầy rêu phong:
Xập xè én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giầy.
Và đêm xuống ánh trăng soi “quạnh quẽ” lẻ loi nơi vườn vắng, tri âm chỉ còn là những cọng cỏ dại mọc lưa thưa:
Đầy vườn cỏ mọc lau thưa
Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.
Chính vì Nguyễn Du đó kết hợp được cả hai lối hành văn bác học và bình dân một cách tài tình nên truyện Kiều đã được tất cả mọi giai tầng trong xã hội đón nhận thưởng thức một cách nhiệt thành. Những chữ mộc mạc bình dân đó chứng tỏ một bước tiến của nền văn chương Việt Nam trên con đường xa dần ảnh hưởng của chữ Hán chữ nôm mà Nguyễn Du đó tiên phong dấn bước.
Lối dùng điển tích trong tả cảnh.
Nguyễn Du là một thi hào dùng rất nhiều điển tích trong tác phẩm của mình. Nhưng khác với những nhà thơ khác , thường dùng điển tích chỉ vỡ chưa tìm được chữ quốc ngữ thích đáng để thay thế . Nguyễn Du thì khóc, cụ đã dùng điển tích để “làm câu thơ thêm có ý vị đậm đà mà vẫn lưu loát tự nhiên, không cầu kỳ thắc mắc” như Giáo sư Hà Như Chi đã nhận định. (Việt Nam Thi Văn Giảng Luận). Nhưng phải nói, những điển tích mà Nguyễn Du dùng chính đã làm giàu cho nền văn chương quốc ngữ Việt Nam, thậm chí nhiều điển tích đã trở thành ngôn ngữ hoàn toàn Việt Nam, mà nói tới ai ai cũng hiểu ý nghĩa đại cương của nó. Chẳng hạn những chữ Biển dâu, Gót sen, Sư tử Hà Đông, kết cỏ ngậm vành, mây mưa, ba sinh, chắp cánh liền cành ..v…v .
Những điển tích thường nằm nhiều trong những đoạn thơ tả người, tả tình tả tâm trạng, tả tiếng đàn, trải dài trong suốt truyện Kiều.
Riêng trong lĩnh vực tả cảnh là chủ điểm của bài này, chúng ta không gặp nhiều điển tích cho lắm. Nhưng cũng xin đan cử vài ví dụ.
Chẳng hạn như đoạn tả cảnh Kiều nhớ Kim Trọng bên dòng nước trong xanh phản chiếu ánh trăng ngà
Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân.
“Gương Nga”chỉ mặt trăng, do tích Hằng Nga, mỹ nhân, vợ của Hậu Nghệ, đánh cắp và uống hết thuốc tiên mà Hậu Nghệ xin được của bà Tây Vương Mẫu. Hằng Nga hóa tiên và bay lên mặt trăng. Từ đó người ta thường gọi mặt trăng là Gương Nga hay chị Hằng, chị Nguyệt .
Hai câu thơ khác :
Sông Tần một giải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương Quan
Sông Tần lấy từ câu “dao vọng Tần Xuyên, can trường đoạn tuyệt” ý núi ở xa nhìn nước sông Tần như nát gan xé ruột . Dương Quan là tên một cửa ải xa ở phía tây nam tỉnh Cam Túc. Cả hai điển tích trên đều mang ý nghĩa một sự nhớ nhung khi xa cách. Đó là lúc Thúy Kiều tiễn đưa Thúc Sinh trở về thăm vợ cũ là Hoạn Thư.
Hay:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Chữ Khóa xuân lấy từ điển tích Châu Du bị gió đông cản việc phóng hỏa đốt trại Xích Bích, nên Đài Đồng Tước không bị cháy, nhưng chính vì đó mà đó khóa chặt tuổi xuân hai chị em tên Đại Kiều và Tiểu Kiều, một người vợ Tôn Sách và một người vợ Chu Du..
Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều.
Hai câu thơ trên ngụ ý tả cảnh lầu Ngưng Bích như là nơi đó khóa kín tuổi xuân của Thúy Kiều.
Một đoạn khác khi Kim Trong trở về vườn Thúy để tìm Kiều, nhưng nàng đã không còn ở đó, chỉ còn ngàn cánh hoa đào hồng thắm đang cười như tiễn biệt gió đông:
Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
Hai câu này lấy từ điển tích nho sinh Thôi Hộ đời nhà Đường, trở về Đào Hoa Trang để thăm người con gái năm xưa đã dâng cho chàng nước uống trong lúc dự hội Đạp Thanh. Nhưng người đẹp đã vắng bóng dù cảnh cũ vẫn còn đấy, chìm ngập trong ngàn cánh hoa đào phe phẩy dưới nắng xuân. Thôi Hộ đã viết hai câu thơ nguyên văn văn :
Nhân diện bất tri hà xứ khứ ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Tóm lại, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du trong Truyện Kiều thật là muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật ấy chẳng khác gì nghệ thuật vẽ một bức tranh thủy mạc, nhiều khi chỉ một mảnh trời, một ánh trăng, một cành liễu, một dòng nước hay một áng mây hoàng hôn v.v… Chỉ thế thôi, nhưng chữ dùng về màu sắc và cách sắp đặt cảnh gần xa thật tài tình đó đủ lôi cuốn tâm hồn người đọc, như để cùng chung hòa vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi được là Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên nhiên nên đã ban cho cảnh thiên nhiên một “hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh của Nguyễn Du mà không khỏi bồi hồi tấc dạ. Bút pháp tả cảnh của Nguyễn Du đó đạt tới mức tinh diệu để chỉ riêng một lĩnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ truyện Kiều không hổ thẹn để xứng đáng là một tác phẩm văn chương quốc ngữ hay nhất trong kho tàng văn học của nước ta.
Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)
Tham khảo:
Bút pháp tả cảnh đặc sắc, điêu luyện qua các đoạn trích “Cảnh ngày Xuân”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
“Truyện Kiều” thứ ngôn ngữ vừa hàm súc, vừa trang nhã, vừa giản dị mà vẫn đẹp đẽ, giàu hình ảnh nhạc điệu. Vì thế người ta gọi “Truyện Kiều” là “tòa lâu đài ngôn ngữ thơ ca” được kết lên từ những viên ngọc lấp lánh sáng trong. – Nghệ thuật miêu tả và xây dựng nhân vật: ở lĩnh vực này Nguyễn Du thành công ở tất cả các bút pháp (tả cảnh, tả tình, tả người). Ông được mệnh danh là một thiên tài bậc thầy của nền văn học dân tộc.Ở bài viêt này tôi xin được phép trình bày một khía cạnh nhỏ trong suy nghĩ của mình khi tìm hiểu Truyện Kiều, đó là: Khai thác một vài nét về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du nói chung rất đa dạng và phong phú. Chính nghệ thuật tả cảnh này đã làm tăng rất nhiều thi vị và giá trị cho Truyện Kiều. Nghệ thuật tả thiên nhiên của Nguyễn Du tuyệt vời đến nỗi giáo sư Nghiêm Toàn đã có nhận định như sau: “Trong Đoạn trường tân thanh luôn luôn có những bức tranh nho nhỏ như những hạt kim cương rải rác đính trên một tấm thêu nhung” (Việt Nam Văn học sử trích yếu).
Lối tả trực tiếp (tả chân):
Đây là cách tả thực, tả thuần tuý với những bức hoạ xinh đẹp, tươi tắn hoặc có khi buồn hiu hắt nhưng không ngụ tình, được viết theo lối văn tinh xảo, chỉ cần một vài nét phác hoạ với những điểm chính hiện hữu.
Hãy xem một cảnh xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút miêu tả thiên nhiên trực tiếp:
“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín đục[2] đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
(Cảnh ngày xuân)
Bốn câu thơ trên Nguyễn Du đã mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu hương, nên thơ. Giữa bầu trời bao la, mênh mông là những cánh én bay qua bay lại như thoi đưa. Cánh én ngày xuân thân mật biết bao. Hai chữ “đưa thoi” rất gợi hình, gợi cảm. Nhà thơ miêu tả cánh én như con thoi vót qua, vót lại chao liệng như muốn nói thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh, ngày vui trôi rất nhanh. Sau cánh én “đưa thoi” là ánh xuân, là “thiều quang” của mùa xuân khi mùa xuân đã bước sang tháng thứ ba. Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của các thi nhân xưa nay thật là hay và ý vị.
Trong thơ cổ, nào là “xuân hướng lão”, “xuân đã muộn” (Nguyễn Trãi). Sau này, trong các tác phẩm hiện đại của các thi nhân lãng mạn cũng đã xuất hiện nhiều hình ảnh thời gian nghệ thuật: Xuân Diệu có “xuân hồng”, Hàn Mặc Tử có “mùa xuân chín”, Nguyễn Bính có “xuân xanh”. Với Nguyễn Du thì “thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” lúc này là cuối xuân, gợi cái đậm của sức xuân. ánh sáng của mùa xuân rực rỡ, ấm áp làm cho bức tranh mùa xuân thêm trong trẻo, tươi sáng. Nếu hai câu thơ trên là thời gian, không gian xuân thoáng đạt, thì hai câu dưới là bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân: “Cỏ non xanh tận chân trời, Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo: “Phương thảo liên thiên bích. Lê chi sổ điểm hoa”.
Hai chữ “trắng điểm” là “nhãn tự”, cách chấm phá điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp trong sáng tinh khôi của thiên nhiên cỏ hoa. Bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: thảm cỏ xanh m¬ướt bao la, trải rộng tới chân trời là gam màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng tinh. Chỉ có hai màu xanh và trắng như nỗi thanh khiết của tâm hồn chị em Thúy Kiều đi dự lễ thanh minh. ở đây, cũng cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. Thay vì “Cành lê điểm một vài bông hoa trắng” thì Nguyễn Du đã viết: “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Có thể Nguyễn Du phải đảo chữ vì tôn trọng luật bằng, trắc trong thơ lục bát, nhưng phải công nhận đó là một lối đảo chữ tài tình mà không phải ai cũng làm được. Thật là một bức tranh màu sắc thanh nhã, hài hòa đến tuyệt diệu. Chỉ bằng hai mươi tư tiếng, Nguyễn Du đã phác họa lên trước mắt người đọc bức tranh mùa xuân có cả chiều cao, chiều rộng, mới mẻ, giàu sức sống. Đây là bức tranh xuân hoa lệ, là những vần thơ tuyệt bút mà Nguyễn Du trao tặng cho đời.
Với lối tả chân này, Nguyễn Du còn điểm trang cho “Truyện Kiều” nhiều bức tranh thật tươi tắn, sống động. Hãy xem cảnh bóng trăng chênh chếch, soi mình trên sóng nước, đẹp lãng đãng như nổi tưởng nhớ miên man của Kiều về Kim Trọng sau buổi gặp gỡ đầu tiên. Chỉ vài nét đơn sơ, giữa trăng, nước và sân nhà đủ diễn tả một khung cảnh tuyệt nhã, đẹp như một bức tranh.
Gương nga chênh chếch dòm song
Vầng trăng ngấn nước, cây lồng bóng sân
Và đây là một bức tranh sơn thuỷ tuyệt đẹp giữa một khung trời chiều mà Nguyễn Du đã gửi vào trong con mắt ngắm cảnh của Thúc Sinh
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi bóng vàng.
Mặc dù lúc này Thúc Sinh đang trên đường trở lại Lâm Tri, lòng mừng khấp khởi. Anh ta có dè đâu giữa cảnh trời thu tuyệt vời ấy những phong ba dữ dội ấy đang ùn ùn nổi dậy. Những lời thơ ấy đã đủ nói lên sức chân thực lớn của ngòi bút Nguyễn Du
Tả cảnh ngụ tình:
Với bút pháp này, đại thi hào Nguyễn Du được coi là điêu luyện, tuyệt bút. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của ông được người đời sau khen ngợi như “máu chảy ở đầu ngọn bút” và “thấu nghìn đời”. Trong Truyện Kiều, cảnh vật bao giờ cũng bao hàm nỗi niềm tâm sự của nhân vật ẩn chứa trong đó đoạn trích “Cảnh ngày xuân” Nguyễn Du miêu tả cảnh chị em Thúy Kiều đi du xuân trở về khi chiều vừa ngả bóng hoàng hôn :
“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”.
Nguyễn Du đã sử dụng lối dùng chữ trang nhã, bình dân trong tả cảnh. Bức tranh không còn tươi rói, tinh khôi nữa mà cảnh được nhân hóa một cách tự nhiên nên dường như nhuốm màu tâm trạng. Hai chữ “tà tà” chỉ một hành động chậm rãi, có thể là chị em Thúy Kiều thong thả bước chân ra về “thơ thẩn” không có gì là vội vã, mà cũng có thể chỉ sự xuống chầm chậm của mặt trời chiều. Cảnh chuyển động nhẹ nhàng, thanh dịu. Chúng được đặt dưới góc nhìn khác nhau, một thời điểm khác, nên giữa cảnh và tình có sự giao hòa đồng điệu.
“Nao nao” là từ láy diễn tả tâm trạng con người nhưng ở đây, Nguyễn Du lại dùng để chỉ dòng nước: “nao nao dòng nước uốn quanh”. Cảm giác về một ngày vui đang còn mà đã linh cảm thấy một điều gì đó không bình thường sắp xuất hiện, như dự báo về cảnh và người sắp gặp: nấm mộ Đạm Tiên và chàng Kim Trọng mà đây là những nốt nhạc dạo đầu. Các từ láy: “tà tà”, “thơ thẩn”, “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ” có giá trị gợi hình, gợi cảm cao. Cảnh được Nguyễn Du nhìn nhận qua tâm trạng xao xuyến, bâng khuâng, man mác một nỗi buồn vô cớ của chị em Thúy Kiều trên đường trở về sau một ngày du xuân.
Và đây là cảnh chiều tà Kim-Kiều gặp nhau. Con đường mà Kim Trọng đã bước qua hiện lên trong mắt Thuý Kiều thật đẹp, thật nên thơ, nên nhạc, cảnh cứ quấn quýt hoà quyện như trái tim hai người đang rạo rực bâng khuâng
Hài văn lần bước dặm xanh
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao
Vẫn là cảnh chiều tà nhưng khi Thuý Kiều nhỏ giọt nước mắt xuống ngôi mộ Đạm Tiên một kỉ nữ “Đến khi thác xuống làm ma không chồng” thì cảnh vật trở nên thê lương, ảm đạm “Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng, nửa xanh“. Vầng trăng là hình ảnh tuyệt đẹp của thiên nhiên, trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã nhiều lần miêu tả vầng trăng nhưng ở mỗi thời điểm, mỗi hoàn cảnh khác nhau của nhân vật, vầng trăng lại được miêu tả trong mối giao hoà với tâm hồn con người. Trong đêm Kim -Kiều thề thốt vầng trăng cũng toả sáng lung linh như mối tình trong trắng, thánh thiện của họ” Vầng trăng chứng kiến một cuộc tình đang lên men say nồng:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt, một lời song song
Vầng trăng đã từng chứng kiến mối tình đẹp để rồi giờ đây vầng trăng ấy lại quặn đau, xót xa như vỡ ra từng mảnh trước cảnh kiều và Thúc Sinh chia tay
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường
Cảnh một đêm thu có trăng sáng nhưng ánh trăng mờ nhạt lạnh lẽo như tâm sự rối bời, nổi niềm sợ hãi, cô đơn của Kiều khi nàng theo Sở Khanh để trốn Tú Bà
Lối mòn có nhạt màu sương
Lòng quê đi một bước đường một đau
Nhiều khi, Nguyễn Du phô diễn lối tả cảnh tượng trưng. Nghĩa là chỉ bằng một vài nét chấm phá, thành nghệ thuật đã đạt đến mức uyển chuyển, tinh tế. Điều đó đã được thể hiện rõ nét trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”:
“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
Vẻ non xa tấm trang gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”.
Hình ảnh thơ đã được Nguyễn Du miêu tả trái với quy luật tự nhiên, thực ra “non” phải ở gần “trăng” phải ở xa. Tuy nhiên, lại phù hợp với quy luật của cảm giác, vì những gì phát sáng ta cảm thấy nó ở gần hơn. Đó chính là sự cảm nhận tinh tế của một tâm hồn nhạy cảm, là tài năng miêu tả thiên tài của Nguyễn Du. Kiều nhìn xung quanh, bốn bề bát ngát, mênh mông, trải dài ngót tầm mắt, với những “cát vàng”, “bụi hồng”, kéo dài ngàn dặm xa. Trong cảnh có màu vàng của trăng, của cát, màu xanh của nói, của biển, của trời, màu hồng của bụi. Cảnh trước lầu Ngưng Bích đẹp như một bức tranh sơn mài diễm lệ. Có mảng sáng, mảng tối, có cao, có thấp, các gam màu nóng tạo cho bức tranh phong cảnh đẹp rực rỡ. Tuy nhiên, qua các chỉ từ “nọ”, “kia” chỉ vị trí không gian không xác định, và các tính từ “xa”, “gần” chỉ khoảng cách giữa các vật. Ta thấy cảnh vật tuy đẹp nhưng không quần tụ, tách rời nhau , ngổn ngang như nỗi ngổn ngang trăm mối tơ vò trong lòng của cô gái họ Vương.
Trước lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều cảm thấy “bẽ bàng”, tủi hổ mỗi khi ngắm nhìn “mây sớm”, hay khi ngồi bên ngọn “đèn khuya”. Cảnh thiên nhiên đẹp nhưng Thúy Kiều không có tâm trạng nào để ngắm cảnh. Cho nên “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” là như vậy. Nhìn chung, cảnh thiên nhiên mênh mông, vắng lặng, trơ trọi, rợn ngợp ở lầu Ngưng Bích là để làm nổi bật tâm trạng, nỗi buồn, niềm cô đơn sầu tủi của nàng Kiều. Chính Nguyễn Du đã từng thú nhận sự chủ quan của mình trong lúc tả cảnh qua câu thơ:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu.
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Cái tài của Nguyễn Du khi tả cảnh đó là tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa cảnh và người. Giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một mà hai. Tám câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là tám câu thơ tuyệt bút đặc sắc cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của nguyễn Du Nó không chỉ là bức tranh ngoại cảnh mà còn là một bức tranh tâm cảnh. Mỗi cảnh vật là một tâm trạng khác nhau của Kiều:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng canh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.
Nhìn ra phía xa xa nơi “cửa bể chiều hôm”, nàng cảm thấy nhớ quê hương, nhớ nhà da diết. Không biết đến bao giờ nàng mới được trở về quê hương yêu dấu, nơi có bao người thân của nàng. Nguyễn Du đã vận dụng thời gian nghệ thuật trong văn thơ cổ, “chiều hôm” đó là buổi chiều tà, lúc hoàng hôn buông xuống, thời gian này thường gợi lên ý niệm nhớ nhung, hoài niệm hoặc tàn tạ, thê lương.
Buổi chiều ấy từng nhiều lần xuất hiện trong thơ ca:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau.
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
(Ca dao)
Bà huyện Thanh Quan chỉ để lại khoảng sáu bài thơ nhưng trong đó có tới ba bài bà miêu tả thiên nhiên vào lúc chiều tà phù hợp với tâm trạng cô đơn nhớ nhà, thương nước, lẻ loi của bà như: “bóng tịch dương” (Thăng Long thành hoài cổ); “bóng xế tà” (Qua Đèo Ngang); “bóng hoàng hôn” (Chiều hôm nhớ nhà). Đã hơn một lần Nguyễn Du sử dụng mô típ này như: “tà tà” trong đoạn trích Cảnh ngày xuân để miêu tả tâm trạng bâng khuâng, nuối tiếc của chị em Thúy Kiều khi đi du xuân trở về.
Trong bức tranh thứ nhất này, có thuyền, có người nhưng thuyền chỉ ở “thấp thoáng” nơi “xa xa”, không ở gần để xẻ chia tâm sự với nàng. Nhìn lên “ngọn nước mới sa” cánh hoa trôi nổi trên dòng nước, không biết sẽ về đâu. Thúy Kiều liên tưởng đến số phận của nàng sau này không biết sẽ thế nào. Thành ngữ “bèo dạt mây trôi” được Nguyễn Du vận dụng rất khéo léo, sáng tạo làm tăng ấn tượng về sự long đong, vô định của sự vật được miêu tả. ở đây là của Thúy Kiều hay là số phận chung của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa. Nhìn xuống mặt đất, nơi “nội cỏ dầu dầu”. Nội cỏ chứa đầy tâm trạng. Không phải là: “cỏ xanh như khói bến xuân tươi” (Nguyễn Trãi); cũng không phải là: “Sóng cỏ xanh tươi gợn đến trời” (Hàn Mặc Tử).
Nguyễn Du rất tài hoa khi miêu tả sự vật này. Trong mỗi cảnh, mỗi tình thì ngọn cỏ lại khác nhau: khi chị em Thúy Kiều náo nức đi chơi xuân thì “Cỏ non xanh tận chân trời”; khi gặp mé Đạm Tiên – một cô ca kĩ “hồng nhan bạc mệnh” thì ngọn cỏ lại “nửa vàng, nửa xanh”. Còn ở đây thì ngọn cỏ lại “dầu dầu” trải dài đến tận chân trời, tạo cảm giác rợn ngợp, tăng thêm sự lạnh lẽo, nhỏ bé, hiu quạnh và cô đơn của Thúy Kiều nơi đất khách quê người. Cảnh chứa đựng một nỗi buồn vô vọng. chất chứa thành khối thấm đẫm vào cỏ cây mây nước “Chân mây mật đất một màu xanh”. Đây đâu phải là màu xanh của sự sống căng tràn của niềm hy vọng. Trong “Chinh phụ ngâm”, nhà thơ Đoàn Thị Điểm cũng đã từng tả màu xanh của ngàn dâu” Ngàn dâu xanh ngắt một màu” để diễn tả nỗi sâù chia ly của người chinh phụ trong mặc cảm cô đơn thăng hoa . ..
Điệp ngữ liên hoàn “buồn trông” được điệp lại bốn lần ở đầu các câu lục, nhằm nhấn mạnh nỗi buồn nhiều vẻ của Thúy Kiều. Bốn cảnh vật là bốn nỗi buồn khác nhau của nàng. Nỗi buồn bủa vây tứ phía không cho nàng lối thoát: nhìn ra xa nơi cửa bể; nhìn lên trên nơi ngọn nước mới sa; nhìn xuống dưới nơi nội cỏ dầu dầu; nhìn xung quanh với ầm ầm tiếng sóng kêu. Nguyễn Du đã theo sát từng bước chân của Kiều. Ông đã nhìn cảnh vật bằng lăng kính tâm trạng của Kiều, và phủ lên cảnh vật bằng chính tâm trạng của Kiều với những lời văn viết ra như máu chảy đầu ngọn bút. Chính vì vậy, ông đã được mệnh danh là nghệ sĩ bậc thầy về miêu tả thiên nhiên và tâm lí nhân vật. Ông đã dành cho nhân vật của mình sự cảm thông sâu sắc.
Tóm lại, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật phong phú, sinh động. Nghệ thuật ấy chẳng khác gì vẽ một bức tranh thủy mặc, nhiều khi chỉ một ánh hoàng hôn, một ánh trăng, một thảm cỏ, một bông hoa, một dòng nước chảy…cũng thành nhạc, thành thơ. Sự hòa phối màu sắc và cách sắp xếp cảnh vật gần – xa thật tài tình đã đủ lôi cuốn tâm hồn người đọc hòa chung vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi là Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên nhiên nên đã thổi vào thiên nhiên một “hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh thiên nhiên của ông mà không bồi hồi tấc dạ. Giá trị văn chương tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt tới mức tinh diệu. Chỉ riêng lĩnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ để Truyện Kiều xứng đáng là một tác phẩm văn chương hay nhất trong kho tàng văn học nước nhà.
Học giả Đào Duy Anh nhận xét về “Truyện Kiều”: “Chúng ta sở dĩ yêu chuộng Truyện Kiều không phải nó có thể làm quyển sách luân lí cho đời, mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn Du đã dùng những lời văn kì diệu để làm rung động hồn ta” (Khảo luận về Kim Vân Kiều). Đúng vậy những rung động trong tâm hồn được khơi dậy khi đọc truyện Kiều hẳn là một điều không ai trong chúng ta có thể phủ nhận bởi vì chúng ta đã có những cảm giác ấy. Truyện Kiều vì thế sống mãi với thời gian, và cũng sẽ mãi mãi là một niềm say mê lớn.
Tham khảo:
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
“Truyện Kiều” của thi hào dân tộc Nguyễn Du là một công trình nghệ thuật bằng thơ lục bát chứa chan tinh thần nhân đạo. Thiên diễm tình của “người quốc sắc, kẻ thiên tài” với bao tình tiết đẹp đẽ, cảm động gieo vào lòng ta bao ấn tượng khó phai mờ. Có không ít vần thơ, câu thơ tả cảnh lung linh sắc màu chẳng khác nào mảnh trời xanh rủ bóng xuống hồn ta trên những nẻo đường nắng lửa. Thiên nhiên trong “Truyện Kiều” đẹp lắm, đọc qua một lần đầu để quên? Và đây là hai câu Kiều cho ta nhiều thú vị văn chương:
“…Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”
Cái buổi chiều tà thanh minh ấy, hình ảnh “Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa” đã làm cho Kim Trọng hào hoa “chập chờn cơn tỉnh cơn mê”... Cuộc chia tay không một lời hẹn ước mà sao đằm thắm nghĩa tình? “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy” (Thế Lữ) đã được thi hào Nguyễn Du ghi lại một cách thần tình:
“Bóng tà như giục cơn buồn,
Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo… ”
Rất tế nhị và thanh tao, cái giây phút rạo rực trái tim Kim – Kiều dự cảm một tình yêu đắm say chớm nở, khiến Nguyễn Du đồng cảm viết nên những vần thơ tình tuyệt bút.
Cuộc chia tay trong hội Đạp thanh đâu dễ quên? Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du nâng cao cảm xúc nghệ thuật. Thời gian trôi nhanh, không gian trở nên trong sáng, tĩnh lặng. Hình ảnh chọn lọc, cụ thể nhưng xiết bao gợi cảm: chiếc cầu nho nhỏ xinh xinh, dòng nước trong veo lững lờ, cành liễu thiết tha trong bóng chiều nhạt … Cảnh đơn sơ mà xinh xắn như bức tranh thuỷ mặc – chứng nhân cho một mối tình đẹp đang nảy nở.
Cảnh vật đẹp và thơ mộng quá! Thiên nhiên như mang nặng tình người. Dòng nước trong veo chảy dưới cầu như tình cảm trong sáng của lòng người. Nhà thơ không hề nói đến gió mà có gió thổi:
“Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha”
Hình ảnh ẩn dụ “tơ liễu” và từ láy ”thướt tha” gợi tả lá liễu, cành liễu dài và mềm bay trước làn gió nhẹ, mang theo bao tình ý xôn xao. Ngoại cảnh hoà nhập trong tâm cảnh, biểu hiện nỗi lòng bâng khuâng xao xuyến, thiết tha của Thúy Kiều và Kim Trọng.
Hai câu thơ lục bát được viết theo cấu trúc “bình đối” không gian hai chiều: “dưới cầu” và “bên cầu”, có màu xanh “trong veo” của dòng nước chảy, có dáng liễu, “tơ liễu” bay “thướt tha” trong bóng chiều xuân, cảnh vật cân xứng, hài hoà và rất hữu tình. Hai câu thơ lục bát tả cảnh đẹp như một bức tranh của một danh hoạ được vẽ bằng những đường nét tinh tế, tươi tắn, gam màu nhẹ hoà hợp tạo cảm xúc thơ mộng: màu xanh của dòng nước trong veo, màu vàng nhạt của bóng chiều tà mùa xuân, màu xanh lục của liễu, đường nét của “chiếc cầu nho nho cuối ghềnh bắc ngang”, của dòng nước “nao nao” uốn lượn quanh co … Ngòi bút của thi nhân tả ít mà gợi nhiều. Cảnh vật thanh tao, sống động, ấp ủ hồn người. Ngoại cảnh như đang xao xuyến rung động trước nỗi niềm bâng khuâng, man mác của lứa đôi. Cảnh vật in dấu tâm sự và tình cảm; một tình yêu đẹp mới chớm nở trong lòng “người quốc sắc, kè thiên tài”.
Trong “Truyện Kiều”, tả cảnh cũng như tả người, Nguyễn Du vận dụng sáng tạo thi pháp cổ truyền thống, tả ít mà gợi nhiều. Chỉ một vài nét chấm phá mà nhà thơ vẽ lên một bức tranh thiên nhiên chứa chan thi vị. Bao trùm lên tất cả là bút pháp ước lệ tượng trưng. Người thì ngư, tiều, canh, mục. Cảnh thì có phong, hoa, tuyết, nguyệt. Cỏ cây hoa lá thì sen, cúc, trúc, mai.v.v… Tuy nhiên, thi hào với ngòi bút thiên tài và tâm hồn nghệ sĩ đã để lại ở câu thơ, vần thơ những dấu ấn đậm đà.
Đọc “Truyện Kiều”, ta nhớ mãi bức tranh tứ bình về trăng, hoa, gió, tuyết:
“Đòi phen gió tựa, hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu”.
Ta quên sao được sự chuyến biến của bốn mùa trong nỗi buồn đau nặng trĩu lòng người:
“Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”
Thiên nhiên trong “Truyện Kiều” rất đỗi quen thuộc với tâm hồn con người Việt Nam. Nhà thơ như một hoạ sĩ tài ba phối sắc, tạo hình, dựng cảnh … đều thần tình, đem đến cho người đọc nhiều rung cảm. Mùa xuân với “Cỏ non xanh tận chân trời / Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Mùa hè với tiếng chim quyên và hoa lựu đỏ:
“Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông.”
Mùa thu với sắc màu rực rỡ:
“Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khối biếc non phơi bóng vàng”
Những hình ảnh “Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”, những nhánh liễu mềm “Lơ thơ tơ liễu buông mành”, những con đường “Lối mòn cỏ nhợt màu sương”, ta vẫn thấy quanh ta, thân thiết, gần gũi. Ta vốn mê say mảnh trăng xứ sở trong ca dao, dân ca, cho nên ta yêu thêm vầng trăng ly biệt trong “Truyện Kiều”:
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi.
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”
Có lúc thi hào dựa vào thi liệu cổ Trung Hoa rồi chắt lọc, tái tạo, câu thơ Kiều trở nên cổ kính, trang nhã, cảnh sắc lại đậm đà một hồn quê: “Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”
Nguyễn Du đã từng nói: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu / Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Thiên nhiên trong “Truyện Kiều” không chỉ là cái nền, cái khung cảnh cho nhân vật, mà còn biểu hiện tâm trạng nhân vật. Ngoại cảnh hoà hợp với tâm cảnh. Tám câu thơ tả cảnh “Trước lầu Ngưng Bích” là những vần thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt diệu. Mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh miêu tả thiên nhiên trong đoạn thơ đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng và một hoán dụ về số phận người thiếu nữ tài sắc mà bạc mệnh:
“…Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Nguyễn Du đã dành cho thiên nhiên một tình yêu nồng hậu với tất cả trái tim đa cảm cùa người nghệ sĩ thiên tài. Thi hào có biệt tài nắm bắt được cái “thần” tiêu biểu nhất của mỗi cảnh vật riêng biệt, và chỉ vài nét phác hoạ. bức tranh thiên nhiên hiện ra hữu tình, hấp dẫn kỳ lạ:
“Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.”
Trong ‘‘Truyện Kiều”, thiên nhiên cũng là một “nhân vật” trữ tình. Mỗi lần thiên nhiên xuất hiện, câu thơ trở nên lung linh, huyền diệu. Nó phản ánh một hồn thơ tuyệt đẹp, một nghệ thuật tả cảnh điêu luyện vô song. Đẹp thay những câu thơ Kiều nói về thiên nhiên. Qua những câu thơ ấy, ta yêu thêm tiếng Việt và thơ ca dân tộc. Đến với những vần thơ Kiều, tâm hồn người đọc rộng mở thắm tươi mãi tình yêu tạo vật, yêu cảnh sắc bốn mùa của đất nước quê hương; đồng cảm với vần thơ của Chế Lan Viên: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”.
Nhà nghiên cứu Phạm Quỳng từng khẳng định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”.
Thơ tả cảnh thiên nhiên trong “Truyện Kiều” đẹp như những viên ngọc quý làm cho người đọc tâm hồn rộng mở. Người đọc thêm yêu cảnh sắc thiên nhiên, thêm yêu vẻ đẹp, sự phong phú của Tiếng Việt. Nhiều thế kỉ qua, “Truyện Kiều” đã là món ăn tinh thần không thể thiếu với mỗi người dân Việt Nam. Bởi vì những vần thơ tuyệt tác trong truyện Kiều có sức hấp dẫn lôi cuốn diệu kì. Nó đã trở thành sách gồi đầu giường của nhiều hệ bạn đọc và tin rằng sẽ còn mãi với thời gian.