Cảm nhận về bi kịch duyên phận và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương qua bài thơ “Tự tình” (bài II).
- Mở bài:
– Giới thiệu bài thơ và cảm hứng chủ đạo của bài thơ: Bi kịch duyên phận và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc.
- Thân bài:
1. Nỗi buồn tủi của nhân vật trữ tình (hai câu đề).
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non”.
– Đêm khuya: lúc nửa đêm về sáng, khi vạn vật chìm trong bóng tối. Câu thơ mở ra thời gian đêm khuya, gợi không gian vắng vẻ, mênh mông.
– “văng vẳng trống canh dồn“: âm thanh tiếng trống điểm canh nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống thể hiện bước đi thời gian gấp gáp, vội vã. Đây còn là không gian, thời gian của tâm trạng: nhịp trống gấp gáp liên hồi thể hiện bước đi dồn dập của thời gian, sự rối bời của tâm trạng.
+ “văng vẳng”: từ láy tượng thanh – những âm thanh nhỏ từ xa vọng đến – càng gợi cái im vắng của không gian (lấy động tả tĩnh)
+ “dồn”: đối lập tương phản – âm thanh dồn dập gấp gáp như hối thúc, dội vào lòng người.
→ Câu thơ mở ra với khoảng thời gian, không gian đặc biệt thể hiện nỗi niềm bất an của con người, trở nên nhỏ bé, lạc lõng, cô đơn giữa không gian rộng lớn nhưng tĩnh vắng.
+ Từ “trơ” đầu câu và nhịp thơ 1/3/3: nhấn mạnh sự tủi hổ, bẽ bàng, trơ trọi, cô đơn, có gì như vô duyên, vô phận, rất bẽ bàng và đáng thương. Từ ngữ thể hiện bản lĩnh thách thức, đối đầu với những bất công ngang trái.
+ “Cái hồng nhan“: cụm từ mang sắc thái trái ngược
- “cái“: suồng sã
- “hồng nhan“: trang trọng
→ Kết hợp từ lạ thể hiện sự rẻ rúng. Hai chữ “hồng nhan” chỉ nhan sắc người phụ nữ đi cùng chữ cái rẻ rúng,mỉa mai, gợi lên nỗi xót xa, đau đớn thấm thía.
+ “Với nước non“: gợi cốt cách cứng cỏi, tư thế kiêu hãnh của người phụ nữ cô đơn buồn tủi… Hai vế đối lập “cái hồng nhan” và “với nước non” diễn tả bi kịch người phụ nữ trong xã hội. Bên cạnh nỗi đau, còn thấy bãn lĩnh của Xuân Hương: bền gan, thách đố.
2. Nỗi bế tắc, tuyệt vọng (hai câu thực).
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
– “Chén rượu hương đưa“: Tình cảnh lẻ loi, mượn rượu để giải sầu
– “Say lại tỉnh“: vòng luẩn quẩn không lối thoát, cuộc rượu say rồi tỉnh cũng như cuộc tình vướng vít cũng nhanh tan, để lại sự rã rời.
– “Vầng trăng bóng xế“: Trăng đã sắp tàn. Tuổi xuân đã trôi qua
– “Khuyết chưa tròn“: Nhân duyên chưa trọn vẹn, chưa tìm được hạnh phúc viên mãn, tròn đầy -> Sự muộn màng dở dang của con người. Hướng đến vầng trăng mong tìm thấy một người bạn tri ân giữa đất trời nhưng càng thêm vô vọng.
→ Con người chới với giữa một thế giới mênh mông hoang vắng – bất lực trước nỗi cô đơn trơ trọi của chính mình. Niềm mong mỏi thoát khỏi hoàn cảnh thực tại nhưng không tìm được lối thoát.
→ Hình ảnh người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng với bao xót xa, duyên tình đã trở thành trò đùa của số phận. Nỗi cô đơn buồn tủi chồng chất, phải tìm đến chén rượu mong có sự khuây khỏa nhưng kết cục “say lại tỉnh” – lúc tỉnh ra thì nỗi cô đơn buồn tủi lại càng trĩu nặng. Tìm đến rượu để quên đời, nhưng không quên được, hương rượu đắng chát, hương tình thoảng qua chỉ còn phận hẩm duyên ôi; tìm đến vầng trăng để mong tìm tri âm, chia sẻ nhưng chỉ thấy đêm tàn, trăng khuyết, tuổi xuân trôi qua mà tình duyên không trọn vẹn.
– Cảm hứng về nỗi đau còn có nét tích cực hơn: mơ ước hạnh phúc, vầng trăng sẽ có ngày tròn, duyên phận sẽ được toại nguyện.
3. Phản kháng và khát vọng (hai câu luận).
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.
– “xiên ngang; đâm toạc”: sự bướng bỉnh, ngang ngạnh. Cảnh thiên nhiên qua cảm nhận của tác giả mang niềm phẫn uất và bộc lộ cá tính mạnh mẽ.
– “rêu từng đám”: sự vật yếu ớt, hèn mọn.
– “đá mấy hòn”: sự ít ỏi, nhỏ nhoi, im lìm.
→ Hình ảnh ẩn dụ cho thân phận lẻ loi, cô đơn của chủ thể trữ tình, đồng thời thể hiện sự phản kháng mạnh mẽ dữ dội, quyết liệt của người phụ nữ, khát vọng “nổi loạn” phá tung, đạp đổ tất cả những trói buộc đang đè nặng lên thân phận mình…
– Cảnh thiên nhiên được cảm nhận qua tâm trạng như cũng mang nỗi niềm phẫn uất. Những sinh vật bé nhỏ, hèn mọn không chịu mềm yếu, đã răn chắc lại càng rắn chắc hơn; cảnh như nổi loạn, như phản kháng, như muốn vạch đất, xé trời mà oán thán
– Nỗi phẫn uất và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc không kìm nén được đã trào ra, truyền vào cảnh vật, tạo nên sự trỗi dậy mạnh mẽ của cảnh vật. Trong lòng nữ sĩ bùng lên sự phản kháng, không chịu khuất phục, muốn vùng vẫy thoát khỏi hiên thực vươn tới cuộc sống đáng sống hơn, ngay cả trong tình huống bi thương.
4. Hai câu kết: Nỗi chán chường, mệt mỏi.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”.
– “Ngán” là chán ngán, ngán ngẫm, ngán nỗi đời éo le, bạc bẽo. Mùa xuân đi rồi sẽ trở lại với thiên nhiên đất trời, nhưng tuổi xuân con người sẽ không bao giờ trở lại, tạo hóa thật bất công với con người.
– “xuân đi“: tuổi trẻ của con người cứ trôi qua, thời gian thì không chờ đợi.
– “xuân lại lại“: vòng tuần hoàn của thời gian vô tận – cứ mỗi mùa xuân đến cũng là lúc tuổi xuân của con người mất đi, quy luật khắc nghiệt của tạo hóa.
→ Ý thức của con người về bản thân mình với tư cách cá nhân, ý thức về giá trị của tuổi thanh xuân và sự sống: Mùa xuân đi rồi trở lại theo nhịp tuần hoàn còn tuổi xuân của con người cứ qua đi mà không bao giờ trở lại.
– “Mảnh tình“: chút tình cảm nhỏ nhoi, không trọn vẹn
– “Tí con con“: sự nhỏ bé, không đáng kể
– “Mảnh tình san sẻ“: mảnh tình vốn đã không được trọn vẹn lại còn phải san sẻ
→ Số phận éo le, ngang trái của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, phải chịu thân phận làm lẽ. Ẩn sâu trong những dòng thơ này là niềm khát khao hạnh phúc tình yêu – một tình yêu nồng thắm, một hạnh phúc trọn vẹn, đủ đầy.
– Nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn, thật xót xa, tội nghiệp; nỗi thất vọng của một tâm hồn khát sống khát yêu.
– Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật Việt hóa một cách sáng tạo; sử dụng từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm với những động từ mạnh, từ láy tượng thanh; sử dụng những hình ảnh giàu sức gợi; nghệ thuật tiểu đối, tăng tiến.
- Kết bài:
– Bài thơ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, nói lên bi kịch tình yêu, gia đình của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương nói riêng, của tất cả những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung. Bài thơ cũng cho thấy tài năng nghệ thuật thơ Nôm của Hồ Xuân Hương: thơ Đường viết bằng tiếng Việt, từ ngữ, hình ảnh giản dị, giàu sức biểu cảm, táo bạo mà tinh tế.
* Tham khảo:
Cảm nhận bài thơ “Tự tình II” của Hồ Xuân Hương.
Hai câu thơ đầu mở ra không gian, thời gian và tâm trạng của con người:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non”.
Thời gian lúc nửa đêm nên không gian thật vắng lặng, tịch mịch, chỉ nghe tiếng trống cầm canh từ xa vẵng lại, vạn vật đã chìm sâu trong giấc ngủ, chỉ có nhà thơ còn trăn trở thao thức với tâm sự riêng tây.
Đã nghe văng vẳng thì không thể có tiếng trống thúc dồn dập được. Âm thanh tiếng trống trở thành âm vang của cõi lòng nôn nao, bồn chồn. (Mỏ thảm không khua mà cũng cốc/ Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om). Bao sức sống dồn nén trong chữ dồn ấy như chực trào ra.
Lẻ loi trước thời gian đêm khuya và bẽ bàng trước không gian non nước nên cái hồng nhan trơ ra. Cách dùng từ sáng tạo và đầy bất ngờ: hồng nhan là một vẻ đẹp thanh quý mà dùng từ cái tầm thường để gọi thì thật là rẻ rúng, đầy mỉa mai chua xót. Trơ là một nội động từ chỉ trạng thái bất động, hàm nghĩa đơn độc, chai sạn trước nắng gió cuộc đời. Biện pháp đảo ngữ trơ cái hồng nhan đã nhấn mạnh nỗi đơn độc, trơ trọi, bẽ bàng của thân phận. Câu thơ chứa đựng nỗi đau của kiếp hồng nhan. Đặt cái hồng nhan trong mối tương quan với nước non quả là táo bạo, thách thức, cho thấy tính cách mạnh mẽ của nữ thi sĩ, khao khát bứt phá khỏi cái lồng chật hẹp của cuộc đời người phụ nữ phong kiến.
Hai câu thực nói rõ hơn tâm trạng của nhà thơ:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xê khuyết chưa tròn”.
Hai câu thơ có hai hình ảnh ẩn dụ. Hương rượu như hương tình, lúc lên men dậy sóng nhưng cũng chóng nhạt phai nên cuộc đời chao đảo, ngả nghiêng. Thật là trớ trêu cho con tạo. Cái ngọt ngào nồng nàn chỉ thoảng qua còn lại là dư vị chua chát, đắng cay. Say rồi lại tỉnh gợi cái vòng luẩn quẩn, dở dang. Còn vầng trăng khuya càng thêm chơ vơ, lạnh lẽo. Trăng đã xế như tuổi đã luống mà chưa bao giờ có được hạnh phúc trọn vẹn. Hai hình ảnh gợi hai lần đau xót. Vầng trăng của Thuý Kiều (Truyện Kiều – Nguyễn Du) là vầng trăng vỡ, còn của Xuân Hương mãi mãi là vầng trăng khuyết.
Hai câu luận là hình ảnh của tâm tư dậy sóng:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.
Tác giả đã dùng động từ mạnh: “xiên ngang”, “đâm toạc’ để miêu tả một thiên nhiên đầy sức sống. Biện pháp đảo ngừ đã nhấn mạnh hành động dữ dội trong nỗi bi phẫn sâu xa. Đó cũng là hình ảnh ẩn dụ cho cái tôi khao khát bứt phá cái giới hạn của người phụ nữ và muôn xé toạc cái thành kiến đóng váng cả ngàn năm phong kiến để tự khẳng định mình, để tìm đến chân trời dân chủ và hạnh phúc. Cái “tôi” không chịu an phận, chủ động đi tìm hạnh phúc thật là mới mẻ. Tính cách này còn được thể hiện ở bài thơ khác:
“Giơ tay với thử trời cao thấp,
Xoạc cẳng do xem đất vắn dài”
Khát khao cũng chỉ là khao khát, nhà thơ quay về thực tại để đối diện với thân phận:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Những người có ý thức về giá trị sự sống thường rất sợ thời gian. Thời gian qua mau mà cuộc đời mãi quạnh hiu chẳng có thay đổi gì, cơ hội tìm kiếm hạnh phúc càng khó. Từ xuân có hai nghĩa: mùa xuân và tuổi xuân. Mùa xuân của đất trời tuần hoàn lặp lại còn tuổi xuân sẽ mãi ra đi. Trong tình cảnh này, lòng người càng thêm chán ngán:
“Ngày xuân tuổi hạc càng cao
Non xanh nước biếc càng ngao ngán lòng”
(Nguyễn Khuyến)
Từ “ngán” đặt ở đầu câu với trọng âm của nó có ý nghĩa nhân mạnh tâm trạng chán chường. Từ lại thứ nhất là trợ từ có nghĩa là thêm lần nữa, từ lại thứ hai là động từ. nghĩa là trở về. Cụm từ “xuân lại lại” mang ý nghĩa biểu cảm tâm trạng đang bị dày vò, day rứt. Trong khi ấy mảnh tình đã nhỏ mà cũng phải san sẻ nên chi còn tí con con. Từ láy cỏn con là quá nhỏ còn điệp từ con con là nhỏ dần, đến lúc sẽ chẳng còn thấy nữa. Nên biện pháp tăng tiến trong câu thơ cho thấy thân phận làm lẽ thật tội nghiệp, hạnh phúc đang hao mòn dần và dự báo sẽ chẳng còn
Chứng minh bài thơ Tự tình là khúc thán ca tự giãi bày lòng mình của nữ sĩ Hồ Xuân Hương