cam-nhan-tam-long-thuong-vo-cua-tu-xuong

Cảm nhận tấm lòng thương vợ của Tú Xương.

Cảm nhận tấm lòng thương vợ của Tú Xương.

  • Mở bài:

Nhắc đến Tú Xương người ta hay nghĩ đến tiếng cười gai góc, cay độc của ông trong từng trang thơ trào phúng. Nhưng ai cũng hiểu rằng, đằng sau tiếng cười ấy là cả nỗi niềm xót xa thế sự. Đời ông Tú gắn với bi kịch thi cử. Suốt đời đeo đuổi văn chương khoa bảng, rốt cùng vẫn chỉ có địa vị của ông Tú nghèo. Chẳng phải đâu ông bất tài. Cay đắng là ở nhân tình thế sự. Những cay cực, tủi hờn của Tú Xương đều được sẻ chia cùng người bạn đời của mình là bà Tú. Cho nên vượt lên trên những hà khắc của tư tưởng phong kiến, ông Tú chân thành tri ân, trân trọng, ngợi ca vợ. Thương vợ không phải là bài thơ duy nhất nhưng là bài cảm động nhất ông Tú viết cho bà.

  • Thân bài:

Thương vợ dựng lên hai bức chân dung: bức chân dung hiện thực của bà Tú và bức chân dung tinh thần của Tú Xương. Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, dường như bao giờ người ta cũng gặp hình ảnh bà Tú hiện lên phía trước và ông Tú khuất lấp ở phía sau.

Bà Tú xuất hiện trong bài thơ với sự vất vả, tảo tần, tất bật ngược xuôi để gồng gánh gia đình. Gánh nặng oằn xuống đôi vai bà:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lăn lội thân cò khi quãng vắng.
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.

Cho nên dù “năm nắng mười mưa”, dù “khi quãng vắng” hay “buổi đò đông” bà vẫn phải bon chen, lặn lội nơi đầu ghềnh cuối bãi. Thân thế của con gái nhà dòng đã không còn ý nghĩa với cuộc đời bà nữa. Bà chấp nhận vì chồng con, chường mặt với đời, cũng phải “eo sèo” tranh mua giành bán để đảm bảo “nuôi đủ năm con với một chồng”. Vất vả là thế nhưng bà đâu than thở, trách móc gì đâu:

Một duyên hai nợ âu đành phận.
Năm nắng mười mưa dám quản công”.

Bà vẫn “âu đành phận”, “dám quản công” lặng lẽ chấp nhận, âm thầm hi sinh cho chồng con, coi đó như là duyên phận cuộc đời. Chỉ có ông chồng thì xót thương cho vợ vô cùng. Xót thương nên mới dõi theo cuộc đời bà bằng cả cõi lòng. Bà Tú không một lời than thở, ấy thế mà ông Tú thì ghi tạc trong lòng, và cả trong thơ nữa, dáng vẻ toan lo tội nghiệp của bà Tú. Ông cũng xót xa khi nghĩ cảnh bà Tú phải bươn trải ngược xuôi, đối mặt với nguy hiểm.

Cái cách nói năm con với một chồng nghe có vẻ hài hước vì người ta ai lại đếm chồng, ai lại xếp chồng ngang hàng con như thế. Nhưng ông Tú đã tự cười mình, trách mình vậy đấy. Tự cho mình là gánh nặng mà bà Tú phải cố gồng hết sức để gánh thêm, tự cho mình là kẻ ăn bám vợ. Thương vợ bao nhiêu lại buồn cho mình bấy nhiêu. Bi kịch này không dễ gì thổ lộ bởi nó làm mất mặt nam nhi lắm. Nhưng ông Tú lại muốn ghi công vợ nên sẵn sàng khuất lấp sau người phụ nữ, sẵn sàng tự kết mình vào hàng những kẻ vô tích sự, ăn bám vợ. Thế mới biết tấm lòng của ông chồng sâu nặng và chân thành đến mức nào.

Tấm lòng thương vợ của Tú Xương không chỉ dừng lại ở việc hiểu, chia sẻ, xót xa, tri ân vợ mà bật ra thành hành động, thành ngôn ngữ trực tiếp. Đó chính là lời chửi đổng cuối bài thơ. Người cất lên tiếng chửi chính là ông Tú. Trước hết là ông chửi thói đời bạc bẽo. Thói đời ở đây là những nếp quen đáng chê trách mặc nhiên cứ được công nhận và chấp nhận. Những đạo “tam tòng”, những “phu xướng phụ tùy”, những định kiến hẹp hòi “trọng nam khinh nữ”…đã khiến cho người phụ nữ xưa phải khổ. Cũng khiến cho những người đàn ông thương vợ như ông Tú không thể “đồng cam cộng khổ” cùng bà một cách thiết thực hơn. Dẫu muốn, chàng Nho sĩ kia cũng không thể “lặn lội thân cò” hay “eo sèo” buôn bán cùng vợ được. Nên chỉ có thể trách mình, ghét mình là kẻ vô tích sự, là “chồng hờ hững”:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!

Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hi sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân, ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. Ông chửi thói đời bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phái khổ. Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của ông đối với vợ con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo: “Có chồng hờ hững cũng như không”.

Đằng sau tiếng chửi mình, chửi đời ấy, chửi xã hội ấy, chúng ta thấy những giọt nước mắt của nỗi đau, của tâm trạng phẫn uất, của bi kịch Tú Xương bật ra qua câu chữ. Hẳn là uất ức lắm mới phải bật lên thành tiếng. Hẳn là giận, đau lắm mới không thể giấu trong lòng. Điều gì biến ông Tú thành kẻ “có cũng như không”? Điều gì biến ông thành kẻ ăn bám con, ăn bám vợ? Bởi Hán học đến thời mạt vận. Bởi thi cử lộn tùng phèo những giá trị thực. Thế là cả đời đi thi rốt cuộc chỉ có cái Tú tài dở dang dang dở. Thế nên tâm sự phẫn uất mới bật lên thành tiếng chửi. Nhưng đó không phải chỉ là lời của một Tú Xương mà còn là bi kịch của một thế hệ. Nói thương vợ là trách mình, là tê tái, đau đớn thương mình là vì vậy.

  • Kết bài:

Đọc Thương vợ ta mới hiểu thấu lòng ông Tú. Hóa ra đằng sau con người phóng túng ăn chơi kia là cả một chiều sâu tâm trạng. Hóa ra đằng sau tiếng cười trào phúng bật lên thành tiếng là cả nỗi đau thé thái nhân tình. Thương vợ khép lại, nhưng nỗi niềm của Tú Xương hẳn còn đọng lại mãi mai sau. Nỗi đau của thời cuộc còn day dứt nhưng đã là bài toán có lời giải trong xã hội hiện nay. Chỉ có nỗi niềm thương vợ thì vẫn còn mang giá trị nhân sinh trong cuộc sống hiện tại này. Yêu thương, quý trọng, tri ân với vợ, đó là những điều làm nên nhân cách của Tú Xương.

Cảm nhận hình tượng bà Tú qua bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang