»» Nội dung bài viết:
Cảm nhận nỗi đau khổ của Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích Trao duyên.
I. Mở bài:
– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du (vị trí trong nền văn học), kiệt tác Truyện Kiều (giá trị đặc sắc) và đoạn trích Trao duyên (vị trí và nội dung đoạn trích).
– Khái quát về nỗi đau của Kiều trong đoạn trích Trao duyên: Đó là những bi kịch đầy đau đớn của một kiếp tài hoa bạc mệnh. Qua đó thể hiện tấm lòng đồng cảm, xót thương của tác giả.
II. Thân bài:
1. Nỗi đau phải chọn lựa giữa tình và hiếu.
– Kiều kể về mối tình mặn nồng cùng chàng Kim:
+ Thời gian: “Khi ngày… khi đêm”: Sự gắn bó mặn nồng của Kim và Kiều
+ Hành động: “Quạt ước, chén thề”: Gợi những kỉ niệm đẹp, những lời hẹn ước của hai người
– “Sóng gió bất kì”: Kiều nhắc đến cơn sóng gió, tai biến của gia đình.
– Thúy Kiều phải đứng giữa hai lựa chọn: Tình và hiếu, cuối cùng Kiều đã chọn chữ Hiếu và hi sinh chữ tình.
→ Mối tình Kim – Kiều là mối tình nồng thắm nhưng mong manh, dang dở và đầy bất hạnh. Phải hi sinh chữ tình Kiều vô cùng đau đớn, xót xa.
2. Nỗi đau phải trao đi duyên tình.
a. Lời lẽ và hành động trao duyên của Kiều.
– Lời lẽ:
+ “Cậy”: trông mong, tin tưởng, mang âm điệu nặng nề gợi sự đau đớn khó nói.
+ “Chịu”: sắc điệu cầu khẩn van xin.
– Hành động: “lạy, thưa” thể hiện sự thay đổi ngôi thức bậc, khẩn khoản vì đó là việc nhờ cậy cực kì quan trọng.
→ Lời lẽ và hành động khẩn khoản, trang trọng vì Kiều biết hành động trao duyên của mình có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời Vân.
b. Lí lẽ trao duyên:
– Kiều nhắc đến tuổi trẻ của Vân, nhắc đến tình máu mủ, và cả cái chết → Những lí lẽ vô cùng sắc sảo đầy lí trí, thuyết phục em bằng cả lí lẽ và tình cảm khiến Vân không thể từ chối.
→ Kiều đang cố gồng mình làm chủ cảm xúc dù đang vô cùng đau đớn.
c. Kiều trao kỉ vật cho em.
– Kỉ vật: Chiếc vành, bức tờ mây → Kỉ vật đơn sơ mà thiêng liêng, gợi quá khứ hạnh phúc.
→ Kiều đau đớn khi nhớ lại mối tình đẹp của mình.
– Cách nói: “Duyên này thì giữ – vật này của chung”: Sự giằng xé, mâu thuẫn trong tâm trạng Kiều.
→ Kiều đau đớn, dằn vặt tột cùng khi trao đi kỉ vật tình yêu. Khi lí trí không thể là chủ, nàng đã quyết giữ lại tình yêu mà chỉ trao duyên số.
d. Kiều dặn dò em.
– Từ ngữ chỉ cái chết: lò hương, hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan → Dự cảm không lành về tương lai, sự tuyệt vọng tột cùng. Còn gì đau đớn hơn khi Kiều phải đi trao duyên trong khi trong lòng còn yêu rất nhiều. Đó là bi kịch lớn trong tình yêu.
→ Người mà Kiều trao duyên lại chính là em gái của mình vì đó là người mà Kiều tin tưởng nhất, nhưng nó lại khiến nỗi đau của Kiều lớn hơn vì nàng lo lắng cho tương lai của Vân rồi đây sẽ ra sao.
3. Nỗi đau trước cuộc đời dang dở, đổ vỡ, lênh đênh, lỡ làng.
– Sử dụng một loạt các thành ngữ.
+ “Trâm gẫy gương tan”: Chỉ sự đổ vỡ.
+ “Tơ duyên ngắn ngủi”: Tình duyên mong manh, dễ vỡ, dễ đổ nát.
+ “Phận bạc như vôi”: Số phận hẩm hiu, bạc bẽo.
+ “Nước chảy hoa trôi lỡ làng”: Sự lênh đênh, trôi nổi, lỡ làng.
→ Hình ảnh gợi tả số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi.
– Nguyễn Du đã mở ra hai chiều thời gian hiện tại và quá khứ. Quá khứ thì “muôn vàn ái ân” đầy hạnh phúc trong khi ấy hiện tại thì đầy đau khổ, lỡ làng và bạc bẽo → Sự đối lập nhấn mạnh, khắc sâu bi kịch, nỗi đau của Kiều, càng nuối tiếc quá khứ đẹp đẽ bao nhiêu thì thực tại càng bẽ bàng, hụt hẫng bấy nhiêu.
→ Thực tại cuộc đời đầy nhiệt ngã đầy đau đớn, tủi hờn của Thúy Kiều. Chính Kiều là người nhận thức được rõ nhất về cuộc đời mình, vì thế nỗi đau càng thêm xót xa.
III. Kết bài:
– Khái quát lại những nội đau của Kiều trong đoạn trích.
– Thể hiện suy nghĩ của bản thân: Xót thương, đồng cảm, chia sẻ với những nỗi đau của Kiều.
Bài văn tham khảo 1.
Cảm nhận về nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên.
- Mở bài:
Truyện Kiều là một trong những tác phẩm hay nhất của Nguyễn Du. Trong đó, đoạn trích “Trao Duyên” là một trong những đoạn ông thể hiện tâm trạng của Kiều một cách xuất sắc. Vừa thể hiện được nội tâm của Kiều vừa thể hiện sự thông minh vốn có của mình để trao duyên cho em mình Thúy Vân.
- Thân bài:
Nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, “Trao duyên”, ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy Kiều trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình không giữ trọn lời đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn thơ không chỉ có chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của Thúy Kiều.
Mở đầu đoạn thơ là 8 câu tâm sự của Thúy Kiều, về mối tình của mình với chàng Kim. Kể ra, với người xưa, một mối tình thiêng liêng như Thúy Kiều – Kim Trọng thường được giấu kín trong lòng ít khi người ta thổ lộ với người thứ ba. Vậy mà ở đây, Thúy Kiều phải bộc lộ tất cả với Thúy Vân. Hơn thế nữa, nàng phải lạy em như lạy một ân nhân, một bậc bề trên, phải nói với em bằng những lời lẽ nhún nhường gần như van xin.
Không phải nhờ mà là cậy, chị nhờ em giúp chị với tất cả lòng tin của chị. Nhờ em nhưng cũng là gửi gắm vào em. Bao nhiêu tin tưởng bao nhiêu thiêng liêng đặt cả vào từ cậy ấy! Cũng không phải chỉ nói mà là thưa, kèm với lạy. Phải thiêng liêng đến mức nào mới có sự “thay bậc đổi ngôi” giữa hai chị em như thế. Nguyễn Du thật tài tình, như đọc thấu tất cả nỗi lòng nhân vật. Nỗi đau khổ vì không giữ trọn lời đính ước với chàng Kim đã buộc Thúy Kiều phải nói thật, nói hết với em, phải giãi bày tất cả. Bởi vì không có cách nào khác là phải nhờ em. Gánh tương tư đâu có nhẹ nhàng gì, thế mà vì mình giờ đây bỗng giữa đường đứt gánh, ai mà không đau khổ. Nhưng, gánh nặng vật chất thì san sẻ được, nhờ người khác giúp đỡ được, còn gánh tương tư mà nhờ người khác giúp đỡ cũng là điều hiếm thấy xưa nay. Vì vậy, Kiều mới phải cậy em, mới phải lạy, phải thưa, vì nàng hiểu nỗi khó khăn, sự tế nhị của gánh nặng này. Rõ ràng, Thúy Vân cũng phải hi sinh tình yêu của mình để giúp chị. Trong hoàn cảnh bi thương của mình, Thúy Kiều không chỉ trao duyên mà còn trao cả nỗi đau của mình cho em gái. Tuy nhiên, Thúy Vân vốn là cô gái vô tư, thơ ngây trong gia đình họ Vương lúc vạ gió tai bay, Thúy Kiều phải giành cho mình phần hi sinh lớn hơn; không chỉ hi sinh tình yêu mà hi sinh cả cuộc đời để cứu cha, cứu em.
Trao duyên cho em nhưng nào đã dễ trút đi gánh nặng? Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về. Những kỉ vật thiêng liêng nàng vẫn giữ, minh chứng cho tình yêu của nàng với chàng Kim, dễ gì trong phút chốc lại phải trao sang tay người khác, cho dù người đó chính là em gái mình? Tình yêu đôi lứa vốn có chút ít ích kỉ bên trong, đó cũng là lẽ thường tình. Chiếc thoa với bức tờ mây, Phím đàn với mảnh hương nguyền… vốn là kỉ vật riêng của Thúy Kiều, kỉ vật ấy có ý nghĩa tượng trưng cho hạnh phúc của nàng. Bây giờ, những kỉ vật thiêng liêng ấy, nàng phải trao cho em, không còn là của riêng của nàng nữa mà đã trở thành của chung của cả ba người. Đau xót làm sao khi buộc phải cắt đứt tình riêng của mình ra thành của chung! Biết vậy nhưng Thúy Kiều cũng đã trao cho em với tất cả tấm lòng tin cậy của tình ruột thịt, với tất cả sự thiêng liêng của tình yêu với chàng Kim. Nàng thuyết phục em mới khéo làm sao .Trên hết giữa chị với em là tình máu mủ; vì tình máu mủ ai nỡ chối nhau? Vì vậy, suốt từ đầu đến cuối đoạn thơ không hề thấy lời nói của Thúy Vân. Thúy Kiều như người đang dốc bầu tâm sự, nàng phải dốc cạn với em mới có thể thanh thản ra đi. Nàng tưởng tượng đến lúc mình đã chết, oan hồn trở về lẩn quất bên chàng Kim. Khi đó, âm dương cách biệt, chỉ có chén nước mới giải được mối oan tình. Lời tâm sự sao mà thương!
Cuối đoạn thơ nàng tưởng như mình đang nói với người yêu. Nỗi lòng vẫn ngổn ngang tâm sự, vẫn còn trăm nghìn điều muốn nói với chàng, vẫn không làm sao kể cho xiết muôn vàn ái ân giữa nàng với chàng; không giữ được trọn lời thề nguyền với chàng, nàng đành gửi chàng trăm nghìn lạy. Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lí của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn. Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Tố Hữu đã nói thay bao người, bao thế hệ!
- Kết bài:
Chỉ với 12 câu thơ thôi mà quá đó ta thấy được ở nhân vật Thúy Kiều một trái tim thiết tha, chung thủy với tình yêu, một tấm lòng hiếu thảo với những đấng sinh thành cao quý. Sâu thẳm trong tâm hồn ấy là nỗi đau, nỗi day dứt và đắng cay khôn nguôi khi cuộc tình thanh xuân không trọn vẹn nơi Kiều. Đoạn trích Trao duyên chính là một nốt nhạc đau thương của bản tình ca đẹp mà buồn thương Kim- Kiều khiến ai đã từng lật những trang sách viết về cuộc đời nàng cũng phải ngậm ngùi thổn thức cho một bi kịch tình yêu đầy ngang trái.
Bài văn tham khảo 2:
- Mở bài:
Duyên phận là của trời cho, không được cưỡng cầu và càng không nên ép buộc, nhờ vả. Thế nhưng Thúy Kiều trong đoạn trích “Trao duyên” (Truyện Kiều) của Nguyễn Du đã cho mình cái đặc quyền đi “nhờ”, “cậy” duyên như vậy. Tác giả đã phân tích thành công tâm trạng chua xót, đầy đớn đau của Thúy Kiều khi phải trao mối duyên đầu với Kim Trọng cho em gái là Thúy Vân. Một nghịch cảnh trớ trêu, bất hạnh.
- Thân bài:
Đã gọi là duyên thì đến rất tự nhiên, đi tìm cũng không được, duyên đến thì giữ, duyên đi thì buông tay. Đó là duyên phận của mỗi người, mỗi cuộc đời khi gặp gỡ nhau. Trong tình yêu thì chữ ”duyên” này càng lớn lao và quan trọng. Nhưng Thúy Kiều trong đoạn trích “Trao duyên” đã phải mang chữ duyên của mình gửi nhờ một người khác.
Nguyễn Du đã chua xót khi khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều lúc này:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Chỉ với hai câu thơ nhưng biết bao chua xót và dằn vặt, biết bao nước mắt và đau đớn. Từ “cậy” được đặt lên đầu câu diễn tả hoàn cảnh ngặt nghèo, khó thưa, khó gửi của Thúy Kiều. Vốn dĩ Thúy Kiều là chị, sẽ không có chuyện “thưa”, “lạy” Thúy Vân bất cứ việc gì; nhưng trong hoàn cảnh này, nàng đã phải làm những việc tưởng chừng như nghịch lý như vậy. Mối duyên với chàng Kim là mối duyên trời cho, nhưng số phận của Thúy Kiều giờ nổi trôi, bấp bênh, nàng không muốn phụ chàng, nên đã muốn cậy nhờ em gái nối tiếp mối duyên dở dang ấy. Câu thơ như cứa vào lòng người đọc nỗi chua xót cùng cực. Từ “cậy” là điểm nhấn, là sự thành công về mặt ngôn ngữ của Nguyễn Du.
Thúy Kiều bắt đầu giãi bày nỗi lòng của mình bằng những câu thơ như dao cắt:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Đến đây thì người đọc đã thực sự hiểu hết ý nghĩa của từ ‘cậy”, nó không còn là nhờ nữa mà mang tính chất ép buộc, bắt buộc phải làm. Thúy Kiều hiểu được hoàn cảnh, hiểu được nỗi đau của bản thân mình. Nàng đã hi sinh chữ tình vì chữ hiếu, quyết phụ chàng Kim, chứ không thể phụ cha mẹ. Một người con gái yếu đuối, mỏng manh nhưng rất mực hiếu thảo. “Gánh tương tư” đã đứt gánh, mối duyên đã vỡ, nhưng Kiều không muốn chàng Kim đau lòng, nàng chỉ mong Thúy Vân có thể nối lại mối duyên này. Mặc dù “trao duyên” cho em gái nhưng lòng nàng đau như cắt. Những hẹn ước, những mong chờ, những kỉ niệm cứ như xát muối vào trong trái tim người con gái mỏng manh ấy.
Thúy Kiều đã rất khéo léo khi ‘cậy” duyên em gái, đã đem chuyện máu mủ để ép Thúy Vân nên Thúy Vân không thể từ chối được:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương tan
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Thúy Kiều và Thúy Vân đều đang “đến tuổi cập kề” nhưng nàng lại nhắn nhủ với Thúy Vân “ngày xuân em còn dài”, có thể gánh tiếp mối duyên với chàng Kim, với người mà Kiều yêu thương. Một sự chua xót đến đau lòng khi Kiều nhắc đến cái chết, một dự liệu chẳng lành hay là một cuộc đời sẽ chẳng bình an mà nàng sắp phải mang. Thúy Vân có thể giúp đỡ thì dù mai này có chết Kiều vẫn “ngậm cười chín suối”. Qua đây chúng ta thấy được tấm lòng, sự lương thiện, sống và yêu hết lòng mình.
“Trao” đi mối duyên mà bản thân nâng niu, trân trọng là điều đau đớn, chua xót mà Kiều phải gánh chịu. Nhưng đây là con đường Kiều phải chọn để đi, vì không còn lựa chọn nào khác nữa. Kiều mong em gái có thể giữ lấy mối duyên mà cô phải buông bỏ, để không phụ tấm lòng của Kim Trọng.
Và dường như cái chết càng hiện rõ nét trong những lời nói của Kiều:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đèn nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Sống trong xã hội nhiều bất công, những người đáng lẽ ra phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn lại phải lựa chọn con đường đi nhiều nước mắt. Cái chết không phải là kết thúc đối với Kiều, vì nàng còn mang nặng món nợ lớn với đời, với Kim Trọng. Thúy Kiều chỉ có thể bất lực với tình yêu của mình, mong Kim Trọng có thể hiểu được. Sự bế tắc và đau khổ trong lòng Thúy Kiều dường như chồng chất và đè nén không thể thoát ra được. Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ có sát khí mạnh, cứa vào lòng người đọc một nỗi đau tận trái tim. Thương cho cô gái yếu đuối, với trái tim yêu chân thành nhưng lại rơi vào bế tắc cùng cực như vậy.
- Kết bài:
Đoạn trích “Trao duyên” thực sự khiến người đọc không kìm được cảm xúc khi nghĩ đến thân phận và nỗi đau mà người con gái hiếu thảo ấy phải gánh chịu. Xã hội bất công, lòng người bạc bẽo đã đẩy những phận người thấp cổ bé họng vào con đường không lối. Thúy Kiều và mối tình đứt gánh ấy là minh chứng cho điều đó.
Bài văn tham khảo 3:
- Mở bài:
Nguyễn Du là nhà thơ kiệt xuất của văn học Việt Nam. Tên tuổi của ông còn được liệt vào hàng các nhà thơ lớn của thế giới, của nhân loại. Là người tài cao học rộng, ông để lại nhiều tác phẩm văn chương bằng chữ Hán và chữ Nôm. Đọc văn chương của Nguyễn Du, dù là chữ Hán hay chữ Nôm ta đều thấy ông “có con mắt trông thấu sáu cõi, có tấm lòng nghĩ tới muôn đời”. Tác phẩm của ôag là bức tranh hiện thực mang sức mạnh tố cáo chế độ phong kiến. Ở đó ông dựng lên những kiếp người đau khổ, những nhân phẩm bị đày đọa. Cũng từ đó, tác phẩm của ông toát lên một tấm lòng nhân ái bao la, hiện thân của một tinh thần nhân đạo sâu sắc. Ông thông cảm với nỗi đau oan nghiệt của mọi kiếp người, đặc biệt của những con người tài hoa, đức độ những con người bị xã hội phong kiến giày xéo.
Truyện Kiều là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, và cũng là kiệt tác số một của văn học nước nhà. Thuý Kiều – nhân vật trung tâm của truyện được sáng tạo từ cảm hứng nhân đạo sâu sắc, đẹp đẽ, đẹp cả về hình thức, đẹp cả về tinh thần. Nhưng Kiều cũng là nạn nhân, là hiện thân nỗi đau của những con người tài hoa, đức hạnh, có phẩm giá bị xã hội phong kiến chà đạp một cách thô bạo.
Trao duyên cũng là một trong những nỗi đau đó của Kiều. Đây cũng là nỗi đau đặc biệt vì trong nỗi đau này Kiều phải tự mình dứt bỏ giấc mơ hạnh phúc riêng tư. Bởi vì cảnh trao duyên diễn ra sau khi Kiều đã quyết định “bán mình chuộc cha”: Kiều không còn là người tự do nữa, Kiều đã thuộc về người khác, bị cột chặt vào người khác bởi “vàng ngoài bốn trăm”. Trong hoàn cảnh đó Kiều không thể ôm theo mối tình Kim Trọng, càng không thể bán nó cho ai, Kiều đành trao duyên trong đớn đau để “lời thề” được toàn vẹn thuỷ chung.
- Thân bài:
Cuộc trao duyên diễn ra trong khoảng dừng ngắn ngủi giữa hai lần khóc. Lần đầu:
Một mình nàng, ngọn đèn khuya
Áo đầm giọt tủi, tóc se mái sầu
Một mình – một ngọn đèn leo lét làm cho đêm khuya lại càng khuya hơn, làm cho đêm đen lại càng sâu thẳm hơn. Nỗi buồn càng buồn hơn. Nỗi đau càng đau hơn và sự tủi phận cũng lớn hơn. Nhưng Kiều không dám khóc to vì sợ gia đình chưa bình tâm sau tai hoạ và vì chưa nói được, chưa trao lại được mối tình sâu nặng vẫn giấu kín bấy lâu nay.
Lần khóc thứ hai:
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Lần này thì Kiều khóc to, khóc cho sự oan uổng, oan nghiệt, bởi vì từ đây Kiều đã mất tất cả. Khóc là một trạng thái biểu cảm của con người. Có thể người ta khóc khi vui đó là những giọt nước mắt sung sướng. Nhưng nói chung phần lớn người ta khóc vì buồn, vì tủi, vì đau đớn, xót xa hay vì một sự hoà cảm nào đó. Trước khi trao duyên, Kiều cũng đã có ba lần khóc. Lần đầu tiên vào tiết thanh minh, trong khung cành “Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”. Ở đó Kiều đã “đầm đầm châu sa”, khóc thương cho một Đạm Tiên tài hoa mà mệnh bạc. Đây là tiếng khóc bật ra một sự đồng cảm, của một sự tri kỷ tri âm nào đó. Đồng thời nó cũng là thái độ đánh giá của Kiều đối với Đạm Tiên: một sự cảm thông sâu sắc. Nó không phải là giả dối, không phải là nước mắt cá sấu. Ở đây Kiều khóc cho con người, khóc cho đồng loại, khóc cho một nửa thế giới nhân quần.
Cách đặt vấn đề của Kiều cũng khéo léo, sự khéo léo thật bình tĩnh:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Nghĩa là chuyện thì còn dài, nếu Vân chịu nghe thì Kiều xin được lạy đã rồi mới “thưa” chuyện. “Thưa” là chuyện nghiêm túc. Trước sự hi sinh cao cả của Kiều, trước tấm lòng nhân hậu của Kiều, Thuý Vân cũng hiểu được chuyện đang vướng là “tơ duyên”, là chuyện tình, nhưng để nghe chuyện tình đó thì phải nhận “lạy” đã. “Lạy” là một hành vi mang tính chất tôn giáo đã góp phần làm thiêng liêng hóa vấn đề.
Lời đề nghị của Kiều bao hàm tính điều kiện, tính ràng buộc trong đó. Câu chuyện tình Kim – Kiều không bó hẹp nữa mà nó trở thành tình nghĩa. Kiều lấy nghĩa để đáp lại tình Kim và hi vọng Vân sẽ lấy nghĩa để đáp đền tình chị: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”.
Tiếp đó Kiều kể lại vắn tắt:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Ba từ “khi” chỉ ba trạng thái nhưng đều là các hành động diễn ra liên tiếp, không đứt quãng. “Ngày” và “đêm” nối tiếp làm cho thời gian liền mạch. Tất cả quy tụ lại vào hai chữ “ước” và “thề”. Nhưng bài toán “Sự đâu sóng gió bất kỳ” chỉ có một đáp số: “Hiếu tình khôn lẽ hai bê vẹn han.
Lời bàn như thế là thấu đáo, hoàn cảnh của Kiều không cho phép Kiều thực hiện cả hiếu cả tình. Kiều rất ý thức về điều đó. Một câu hỏi lớn được đặt ra để nâng cao nhận thức cho Thuý Vân, để Kiều bàn bạc với Thuý Vân.
Ngày xuân em hãy còn dài
Đối lập với “dài” là “ngắn”. Xuân em thì “dài” mà xuân chị thì “ngắn”, thậm chí ngắn tới mức không còn nữa để mà so sánh. Trong thâm tâm, Kiều cũng xác định mình không còn tuổi xuân nữa, mùa xuân cuộc đời Kiều đã chấm dứt từ khi nàng quyết bán mình chuộc cha. Cuộc đời Kiều, về tinh thần đã chấm dứt. Chiều sâu của nỗi đau hiện lên. Kiều van lạy, kêu gọi Vân hãy vì sự mất mát đó của Kiều vì đó cũng là máu chảy ruột mềm, để mà: “Xót tình máu mủ thay lời nước non”. Xót có nghĩa là phải chịu một nỗi đau đồng cảm, người ngoài cuộc không có được nỗi đau mất mát này. Xót chỉ được tạo ra bởi tình máu mủ thì nỗi đau mới thấm thìa và tính trách nhiệm của Vân mới cao. Vân phải chia sẻ nỗi đau đó.
Nói được cái cần nói, đặt được lời trao duyên rồi, Kiều đề cập ngay đến cái chết:
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Bởi vì lời thế trước vong linh người chết bao giờ cũng thiêng liêng cao cả, đầy danh dự và trách nhiệm. Giữ lời hứa với người đã khuất cũng vậy. Nhận lời trao duyên của Kiều, Vân phải thực hiện trách nhiệm của người sống để đền đáp nghĩa đối với “người chết”.
Trong tình yêu, ngoài lời nói còn kỉ vật. Cuộc gặp gỡ thề thốt giữa Kim – Kiều, Vân đâu có biết. Vì vậy phải có kỉ vật để làm bằng: “Chiếc thoa với bức tờ mây”, Kiều đã trao lại và dặn em:
Duyên này thì giữ vật này của chung
“Tờ mây” cam kết cho duyên lành và giữ cho duyên khỏi tan vỡ, còn “chiếc thoa” thì là “của chung”, bởi lẽ mỗi khi nhớ chàng Kim, Kiều cũng đã từng phải giở nó ra. Trao kỉ vật xong, Kiều lại nói đến cái chết:
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Nỗi đau được đẩy lên bằng chính sự tự ý thức của Kiều, Kiều tự ví mình là “người mệnh bạc”, để rồi sau này khi Vân đau xót vì “người mệnh bạc”, Vân sẽ giữ gìn “duyên” tốt hơn. Kiều cũng đã ngầm lo cho hạnh phúc của chàng Kim nữa.
Các kỉ vật như “chiếc thoa”, “bức tờ mây” là kỉ vật mang tính pháp lí, mang tính ràng buộc, nhưng chưa phải là kỉ vật của tình cảm. Kiều phải nghĩ tới lúc Kim Trọng thấy lại “chiếc thoa” và “bức tờ mây” mà vẫn không chịu lấy Thúy Vân thì sao? Kiều đã đưa cho em các kỉ vật của tình cảm – các kỉ vật gắn liền với cảm giác tâm linh – để giải quyết vấn đề đó:
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Đây là các kỉ vật của sự gắn kết, của sự thiêng liêng hoá các mức độ của tình cảm: “phím đàn” đã tạo ra sự hoà quyện âm thanh giữa đất và trời giữa nam và nữ, là tiếng lòng giãi bày, là tâm tư được nói hộ, còn “mảnh hương” gắn với sự thề nguyền từ hai con tim đồng điệu. Ở đó “thiên nhân hợp nhất”. Cái đau lại hiện lên khi kỉ niệm lại hiện về. Và cái chết lại xuất hiện bằng một viễn cảnh mà Kiều tự vẽ cho mình:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghi trúc mai.
Cái đau thể hiện khát vọng hướng về cái đẹp, cái hạnh phúc, hướng tới khát vọng về sự bình an trong cuộc sống gia đình, ý thức được điều đó bao nhiêu, nỗi đau của Kiều càng lớn bấy nhiêu:
Dạ đài khuất mặt cách lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Vì “sóng gió bất kì” nên Kiều phải “thịt nát xuơng mòn” phải trở thành “người mệnh bạc” nhưng Kiều dứt khoát khẳng định mình là “người thác oan”. Đó là nỗi oan mà “Oan này có một kêu trời nhưng xa”. Nỗi đau được nhận thức và được nhân lên gấp bội. Và thời gian không còn ủng hộ Kiều nữa, thời gian lúc này đã gấp gáp lắm rồi:
Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Từ “bây giờ” có một sức mạnh đặc biệt. Nó đặt dấu chấm hết cho mọi quan hệ, liên hệ của Kiều vói quá khứ, trả lại Kiều trong hiện tại phũ phàng. Tất cả đều đã “gãy” và “tan”, đều không cứu vãn được nữa. “Gãy” và “tan” tăng thêm sức mạnh cho sự phũ phàng, cho sự oan nghiệt trút lên đời Kiều. Ba lần trao: một lần trao lời, hai lần trao kỉ vật đều được kèm theo liền ba hình ảnh của cái chết, của bóng tối, của cái ác. Kiều đau cả thể xác, Kiều đau cả tinh thần.
Nước mắt lại rào ra cùng với những lời thổn thức, xót xa, bởi đấy cũng là lời vĩnh biệt:
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
“Tơ duyên ngắn ngủi”, Kiều không muốn dứt bỏ, cắt xé nó, nhưng Kiều cũng đã không làm thế nào để giữ được. Sức mạnh tố cáo lại bật ra. Và không nén được, nỗi đau lại bùng lên với tiếng khóc xé ruốt:
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Tiếng khóc như là tiếng thét căm hờn kết án một xã hội phong kiến tàn ác. Nó bật ra từ một nỗi đau thê thảm của một con người tài hoa nhưng bị vùi dập.
Cảnh trao duyên diễn ra trọn vẹn giữa hai lần khóc, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, khoảnh khắc chuyển đổi cuộc đời của Kiều, của Vân, của Kim Trọng trong “cuộc bể dâu”. Cuộc trao duyên như một lời trăng trối của người sắp chết nói lại với người đang sống là lời tố cáo đanh thép vạch trần xã hội phong kiến xấu xa tàn ác. Thực hiện việc trao duyên, Kiều đã nuôi hi vọng đền đáp nghĩa tình cho Kim Trọng. Ở đây, ngoài nỗi đau của Kiều còn có nỗi đau mất mát, tổn thất không bù đắp được của Kim Trọng, mặc dù chàng Kim vắng mặt ở đây. Nỗi đau của chàng Kim hòa quyện trong nỗi đau của Kiều và Kiều là người hiểu hơn ai hết nỗi đau mất mát đó. Thuý Vân cũng có nỗi đau riêng, nỗi đau đồng cảm đó rất đáng quý trọng vì nó là chất keo gắn kết mối quan hệ gia đình, xã hội. Ba nỗi đau quyện lại thành một nỗi đau chung của con người trong cuộc đời “dâu bể”. Đó cũng chính là sự thể hiện tài hoa nghệ thuật Nguyễn Du. Vì ở đây, bên cạnh cái đẹp của Kiều, cũng nổi bật lên cái đẹp của Vân, chấp nhận thay chị để kết duyên với người yêu của chị, là một hành động đạo đức đẹp đẽ, cái đẹp toát lên từ sự cưu mang nhân hậu, từ sự quên tình vì nghĩa cả lớn lao, hào hiệp. Vừa tái hiện nỗi đau của Kiều, Nguyễn Du vừa thể hiện cách ứng xử hợp lí hợp tinh của Kiều qua một hệ thống từ ngữ cô đọng, giàu sức gợi cảm. Hình ảnh của Kiều trở nên lộng lẫy hơn, đẹp hơn phù hợp với diễn biến tâm lí của nhân vật. Từ “bán mình” đến “trao duyên”, các yếu tố nghệ thuật thể hiện qua sức biểu cảm của ngôn ngữ nghệ thuật đã tạo ra sức thuyết phục về một Thuý Kiều “mười phân vẹn mười”.
- Kết bài:
Nỗi đau của Kiều trong Trao duyên cũng là nỗi đau của nhân phẩm bị chà đạp, của giá trị con người bị giày xéo. Tiếng khóc ở đây là tiếng khóc cho mình, cho người, khóc cho cuộc đời, cho nỗi đau nhân thế. Nhà thơ Tố Hữu đã viết một lời thơ rất xúc động: “Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”. Dòng lệ đó đòi công bằng và chính nghĩa phải lên tiếng, đòi công lí và tự do phải hành động. Tất cả đều nhằm khẳng định phẩm giá con người.
Xem thêm: