phan-biet-sang-kien-kinh-nghiem-skkn-voi-mot-de-tai-nghien-cuu-khoa-hoc-nckh

Phân biệt Sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) với một Đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH)

Phân biệt Sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) với một Đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH)

Sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) là gì?

1. Khái niệm.

– Sáng kiến kinh nghiệm là những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà người viết tích lũy được trong thực tiễn công tác giảng dạy và giáo dục, bằng những họat động cụ thể đã khắc phục được những khó khăn mà với những biện pháp thông thường không thể giải quyết được, góp phần nâng cao hiệu quả rõ rệt trong công tác của người giáo viên.

2. Yêu cầu khi viết một SKKN:

– Tác giả cần làm rõ tính mục đích, tính thực tiễn, tính sáng tạo khoa học và khả năng vận dụng, mở rộng SKKN đó như thế nào?

+ Tính mục đích: Đề tài đã giải quyết được những mâu thuẫn, những khó khăn gì có tính chất thời sự trong công tác giảng dạy, giáo dục học sinh; nhằm nâng cao nghiệp vụ công tác của bản thân; để trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp

+ Tính thực tiễn: Tác giả trình bày được những sự kiện đã diễn ra trong thực tiễn công tác giảng dạy, giáo dục của mình ở nơi mình công tác. Những kết luận được rút ra trong đề tài phải là sự khái quát hóa từ những sự thực phong phú, những họat động cụ thể đã tiến hành.

+ Tính sáng tạo khoa học: Trình bày được cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn làm chỗ dựa cho việc giải quyết vấn đề đã nêu ra trong đề tài. Trình bày một cách rõ ràng, mạch lạc các bước tiến hành trong SKKN. Các phương pháp tiến hành mới mẻ, độc đáo. Dẫn chứng các tư liệu, số liệu và kết quả chính xác làm nổi bật  tác dụng, hiệu quả của SKKN đã áp dụng.

+ Khả năng vận dụng và mở rộng SKKN: Trình bày, làm rõ hiệu quả khi áp dụng SKKN (có dẫn chứng các kết quả,các số liệu để so sánh hiệu quả của cách làm mới so với cách làm cũ). Chỉ ra được những điều kiện căn bản, những bài học kinh nghiệm để áp dụng có hiệu quả SKKN, đồng thời phân tích cho thấy triển vọng trong việc vận dụng và phát triển SKKN đã trình bày.

3. SKKN có thể chia thành 2 mức độ:

+ Tường thuật kinh nghiệm: tác giả kể lại những suy nghĩ, những việc đã làm, những cách làm đã mang lại những kết quả như thế nào? Ở mức độ tường thuật, tác giả cần làm nổi bật các biện pháp có tính chất sáng tạo, có tác dụng tốt đã giúp tác giả khắc phục khó khăn, mang lại kết quả trong công tác giảng dạy, giáo dục ở cơ sở (mô tả công việc tiến hành theo trình tự logic). Mô tả các kết quả đã đạt được từ việc áp dụng các biện pháp đã tiến hành. Chỉ ra những bài học kinh nghiệm cần thiết.

+ Phân tích kinh nghiệm: Ở mức độ này, tác giả cần thực hiện được các yêu cầu như ở mức độ tường thuật kinh nghiệm. Ngoài ra cần nhận xét, đánh giá những ưu điểm, tác động và những mặt còn hạn chế của SKKN đã thực hiện, hướng phát triển nâng cao của đề tài. Trong việc phân tích, tác giả cần phải: Mô tả các biện pháp đã tiến hành trong đề tài và giải thích ý nghĩa, lý do lựa chọn những biện pháp và tác dụng của chúng. Nêu được mối quan hệ giữa các biện pháp với đặc điểm đối tượng, với những điều kiện điều kiện khách quan. Rút ra những kết luận khái quát  hướng dẫn cho việc áp dụng có hiệu quả SKKN (những điều kiện cần bảo đảm, những bài học kinh nghiệm) và mở rộng, phát triển SKKN.

4. Các bước tiến hành viết một SKKN:

– Chọn đề tài (đặt tên đề tài):

+ Các vấn đề có thể chọn để viết SKKN rất phong phú, đa dạng, bao gồm nhiều lĩnh vực như: Kinh nghiệm trong việc giảng dạy một chương, một bài, một  nội dung kiến thức cụ thể; Kinh nghiệm trong việc giáo dục học sinh; Kinh nghiệm trong việc bồi dưỡng, phụ đạo học sinh; Kinh nghiệm trong việc tổ chức một họat động giáo dục cụ thể cho học sinh…

+ Khi viết SKKN, công việc đầu tiên của tác giả là cần suy nghĩ lựa chọn một tên đề tài phù hợp. Trong nghiên cứu khoa học (viết SKKN) việc xác định tên đề tài có ý nghĩa quan trọng số một, đôi khi nó còn quan trọng hơn cả việc giải quyết đề tài. Việc xác định tên đề tài chính xác có tác dụng định hướng giải quyêt vấn đề cho tác giả,giúp cho tác giả biết tập trung sự nghiên cứu vào vấn đề cần giải quyết, tránh được sự lan man, lạc đề.

+ Tên đề tài chính là một mâu thuẫn, một vấn đề trong thực tiễn giảng dạy, giáo dục mà tác giả còn đang phân vân, trăn trở, tìm cách giải quyết, làm sáng tỏ.

– Viết đề cương chi tiết:

+ Đây là một công việc rất cần thiết trong việc viết SKKN. Nếu bỏ qua việc này, tác giả sẽ không định hướng được mình cần phải viết cái gì, cần thu thập những tư liệu gì về lý thuyết và thực tiễn, cần trình bày những số liệu ra sao? Việc chuẩn bị đề cương càng chi tiết bao nhiêu thì công việc viết SKKN càng thuận lợi bấy nhiêu.

– Tiến hành thực hiện đề tài:

+ Tác giả tìm đọc các tài liệu liên quan đến đề tài, ghi nhận những công việc đã thực hiện trong thực tiễn ( biện pháp, các bước tiến hành, kết quả cụ thể), thu thập các số liệu để dẫn chứng. Tác giả nên lưu trữ các tư liệu thu thập được theo từng lọai. Nên sử dụng các túi hồ sơ riêng cho từng vấn đề thuận tiện cho việc tìm kiếm, tổng hợp thông tin.
+ Trong quá trình thu thập tài liệu cần tiếp tục  xem xét chỉnh sửa đề cương chi tiết cho phù hợp với tình hình thực tế.

  • Viết bản thảo SKKN theo đề cương đã chuẩn bị. Khi viết SKKN tác giả cần chú ý đây là lọai văn bản báo cáo khoa học cho nên ngôn ngữ viết cần ngắn gọn, xúc tích, chính xác. Cần tránh sử dụng ngôn ngữ nói hoặc kể lể dài dòng nhưng không diễn đạt được thông tin cần thiết.
  •  Hoàn chỉnh bản SKKN, đánh máy, in ấn.

5. Kết cấu của một sáng kiến kinh nghiệm:

1. Đặt vấn đề (Lý do chọn đề tài):

+ Phần này tác giả chủ yếu trình bày lý do chọn đề tài. Cụ thể tác giả cần trình bày được các ý chính sau đây:

  • Nêu rõ hiện tượng (vấn đề) trong thực tiễn giảng dạy, giáo dục… mà tác giả đã chọn để viết SKKN.
  • Ý nghĩa và tác dụng (về mặt lý luận) của hiện tượng (vấn đề) đó trong công tác giảng dạy, giáo dục…
  • Những mâu thuẫn giữa thực trạng (có những bất hợp lý, có những điều cần cải tiến sửa đổi ) với yêu cầu mới đòi hỏi phải được giải quyết. Từ những ý đó, tác giả khẳng định lý do mình chọn vấn đề để viết SKKN.

2. Giải quyết vấn đề (Nội dung sáng kiến kinh nghiệm)

+ Đây là phần quan trọng, cốt lõi nhất của một SKKN, theo chúng tôi tác giả nên trình bày theo 4 mục chính sau đây:

  1. Cơ sở lý luận của vấn đề: Trong mục này tác giả cần trình bày tóm tắt những lý luận, lý thuyết đã được tổng kết, bao gồm những khái niệm, những kiến thức cơ bản về vấn đề được chọn để viết SKKN. Đó chính là những cơ sở lý luận có tác dụng định hướng cho việc nghiên cứu, tìm kiếm những giải pháp, biện pháp nhằm khắc phục những mâu thuẫn, khó khăn tác giả đã trình bày trong phần đặt vấn đề.
  2. Thực trạng của vấn đề: Tác giả trình bày những thuận lợi, khó khăn mà tác giả đã gặp phải trong vấn đề mà tác giả đã chọn để viết SKKN. Điều quan trọng trong phần này là mô tả, làm nổi bật những khó khăn, những mâu thuẫn mà tác giả đang tìm cách giải quyết, cải tiến.
  3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề: Trình bày trình tự những biện pháp, các bước cụ thể đã tiến hành để giải quyết vấn đề, trong đó có nhận xét về vai trò, tác dụng, hiệu quả của từng biện pháp hoặc từng bước đó.
  4. Hiệu quả của SKKN: Trong mục này cần trình bày được các ý:
  • Đã áp dụng SKKN ở lớp nào, khối nào, cho đối tượng cụ thể nào?
  • Trình bày rõ kết quả cụ thể khi áp dụng SKKN (có đối chiếu so sánh với kết quả khi tiến hành công việc theo cách cũ)

3. Kết luận.

– Cần trình bày được Ý nghĩa của SKKN đối với công việc giảng dạy, giáo dục… của người giáo viên. Những nhận định chung của tác giả về việc áp dụng và khả năng phát triển của SKKN. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình áp dụng SKKN của bản thân. Những ý kiến đề xuất (với Bộ GD-ĐT, Sớ GD-ĐT, Phòng GD-ĐT, Lãnh đạo trường tùy theo từng đề tài) đề áp dụng SKKN có hiệu quả.

Tóm lại, công việc viết SKKN thực sự là nột công việc khoa học, nghiêm túc đòi hỏi người viết phải kiên nhẫn, phải có sự đầu tư trí tuệ, công sức và thời gian. Đó không phải là một việc dễ dàng. Hy vọng rằng với một số gợi ý trên đây có thể giúp các bạn đồng nghiệp một số ý tưởng chính trong công việc viết SKKN, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo dục

Đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH) là gì?

1. Khái niệm.

Đề tài nghiên cứu khoa học là một họat động tìm kiếm, xem xét, điều tra, hoặc thử nghiệm. Dựa trên những số liệu, tài liệu, kiến thức, đạt được từ các thí nghiệm NCKH để phát hiện ra những cái mới về bản chất sự vật, về thế giới tự nhiên và xã hội, và để sáng tạo phương pháp và phương tiện kỹ thuật mới cao hơn, giá trị hơn. Hay nói cách khác, đề tài nghiên cứu khoa học được đặt ra do yêu cầu của lý luận hoặc thực tiễn và thoả mãn các điều kiện: vấn đề khoa học đang chứa mâu thuẫn giữa cái đã biết với cái chưa biết; và có khả năng giải quyết mâu thuẫn đó.

2. Cấu trúc một đề tài khoa học.

I. Phần mở đầu: Bao gồm

1. Tính cấp thiết – Lý do chọn đề tài.

– Sơ qua về lịch sử vấn đề nghiên cứu. Trả lời câu hỏi: vì sao lại nghiên cứu vấn đề này. Nêu ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.

2. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu để làm gì?, là cái đích mà cuộc nghiên cứu hướng đến, là vấn đề trung tâm xuyên suốt đề tài.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu: xây dựng trên cơ sở mục đích đã xác định. Hướng đến giải quyết những công việc cụ thể và là thành phần của mục đích nghiên cứu. Việc giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu giúp cho việc giải quyết mục đích nghiên cứu.

– Làm rõ cơ sở lý luận.
– Nghiên cứu thực tiễn: phù hợp với nội dung nghiên cứu thực tiễn của đề tài.
– Kết luận, khuyến nghị, giải pháp thực hiện.

4. Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu cái gì?

5. Khách thể nghiên cứu: nghiên cứu ai?

6. Phạm vi nghiên cứu: Xác định một cách rõ ràng hơn về đối tượng, khách thể, địa bàn, thời gian nghiên cứu (giới hạn lại). Cần đảm bảo tính đại diện đủ để xem xét vấn đề nghiên cứu.

7. Giả thuyết nghiên cứu:

– Giả thuyết có thể coi là những dự đoán có căn cứ khoa học về những đặc điểm, bản chất, mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng được nghiên cứu hay dự đoán về kết quả nghiên cứu.

8. Phương pháp nghiên cứu: Trình bày các phương pháp nghiên cứu mà đề tài sử dụng.

9. Cấu trúc nội dung đề tài nghiên cứu: (Có thể không cần)

II. Phần nội dung nghiên cứu.

1. Cơ sở Lý luận.

2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.

3. Quá trình và kết quả nghiên cứuIV. Kiến nghị, đề xuất

III. Phần kết luận.

Những đóng góp của đề tài. Những vấn đề đã được giải quyết. Những vấn đề chưa được giải quyết. Vì sao? Hướng tiếp cận của đề tài.

IV. Tài liệu tham khảo.

V. Phụ lục.

3. Các bước thực hiện một đề tài nghiên cứu khoa học

– Xác định vấn đề nghiên cứu ( lựa chọn đề tài).
– Lập kế hoạch thực hiện.
– Đặt vấn đề, xây dựng giả thuyết.
– Thu thập số liệu, xử lí thông tin.
– Viết báo cáo kết quả nghiên cứu.

Sự khác biệt giữa một SKKN với một Đề tài NCKH:

Viết sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) là viết lại một cách rõ ràng, hệ thống những kinh nghiệm của bản thân đối với công việc mình đảm trách đã mang lại hiệu quả thiết thực, mà nếu người khác không có kinh nghiệm thì không thể đạt được kết quả, hiệu quả công việc như mong muốn.

Cho nên, khi viết SKKN, người viết cần nêu, giải quyết từng vấn đề bằng phương pháp, biện pháp thực hiện cụ thể, biết cách đối chiếu so sánh thông qua các số liệu để nêu bật tác dụng của cách làm do kinh nghiệm của bản thân người thực hiện đem lại. Sau khi đã đặt vấn đề, giải quyết vấn đề một cách rõ ràng, người viết phải biết kết luận vấn đề để từ đó nêu kiến nghị, đề xuất ý kiến… nhằm thỏa mãn những ý tưởng, cách tiếp cận, phát triển và kết luận của SKKN.

Tuy nhiên, đối với SKKN, không nhất thiết phải có một số mục như: Lịch sử vấn đề, cơ sở khoa học (cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn) hay tài liệu tham khảo và phụ lục.

Khác với viết SKKN, làm NCKH là thực hiện một đề tài không còn đơn thuần mang tính chủ quan, cá nhân nữa, mặc dù có thể chỉ một người thực hiện. Vì vậy, đã gọi là đề tài NCKH, ngoài những tiêu chí mang tính nội dung và hình thức, bao giờ cũng phải có cơ sở khoa học – một trong những nội dung cần thiết để tạo nên sự khác biệt cơ bản giữa công trình NCKH và SKKN. Điều cần thiết và quan trọng là người làm NCKH phải tuân thủ những nội dung, quy định, yêu cầu và quy trình một cách nghiêm túc (những yêu cầu phải có của cấu trúc một đề tài khoa học).

Như vậy, SKKN và NCKH có những điểm tương đồng vì đều mang tính cấu trúc và nội dung được thể hiện bằng văn phong nghị luận nên phải chặt chẽ, lô gíc, mạch lạc, hệ thống… cho dù mức độ cao, thấp có thể khác nhau. Tuy nhiên giữa SKKN và NCKH có một số điểm khác nhau cơ bản như sau:

– SKKN: Thiên về miêu tả nội dung công việc dựa theo kinh nghiệm cá nhân, theo cách nhìn chủ quan của tác giả nhiều hơn.

– NCKH: Nghiên cứu vấn đề không những chỉ dựa vào kinh nghiệm của bản thân mà còn phải dựa vào thực tế khách quan để điều chỉnh cho phù hợp. Vì vậy, NCKH phải mang tính khách quan, không phụ thuộc vào bản thân người nghiên cứu.

– SKKN: Không nhất thiết phải có những mục như lịch sử vấn đề, cơ sở khoa học (lý luận và thực tiễn), tài liệu tham khảo và phụ lục.

– NCKH: nhất thiết phải có những mục như lịch sử vấn đề, cơ sở khoa học, tài liệu tham khảo, phụ lục.

– SKKN: Qua thực tiễn, bằng trải nghiệm bản thân, người viết đúc kết kinh nghiệm nhằm giúp mọi người áp dụng dễ dàng để mang lại hiệu quả tốt hơn.

– NCKH: Bằng nhận thức của bản thân, tác giả có thể làm mới một vấn đề dựa trên những cơ sở khoa học (lý luận và thực tiễn) và được thực hiện bằng (những) phương pháp nghiên cứu khoa học.

Tóm lại, NCKH là một loại hoạt động chứa đựng nhiều mạo hiểm, nghiên cứu có thể thành công, cũng có thể phải nếm trải những thất bại. Sự thành công cho ta những giá trị mới, sự thất bại không phải là sự tổn thất mà là sự trả giá của khoa học. NCKH còn chứa đựng những yếu tố mạo hiểm về mặt kinh tế. NCKH khó có thể hoạch định lỗ lãi theo đơn giá, có những thành công thật là vô giá, nhưng cũng có những thất bại thật khó lường. Giá trị của sản phẩm khoa học được quyết định bởi tính thông tin, tính triển vọng, tính ứng dụng và nhu cầu sử dụng của xã hội cũng như tính thực tế của nó. Con người muốn làm NCKH phải có kiến thức nhất định về lĩnh vực nghiên cứu và cái chính là phải rèn luyện cách làm việc tự lực, có phương pháp khoa học và tính sáng tạo cao.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang