but-ki-ai-da-dat-ten-cho-dong-song-hoang-phu-ngoc-tuong-sgk-ngu-van-12-tap-1

Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường) – SGK Ngữ văn 12, tập 1

Ai đã đặt tên cho dòng sông?
(Hoàng Phủ Ngọc Tường)

[…] Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua nhựng ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dăm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gài Di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sang. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lí giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đử bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở mọi cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.

Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa đồng Châu Hoá đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điên Hòn Chen; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hường sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, song Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong -Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những sớm làng trung du bát ngát tiếng gà…

Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của những vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tân nam-đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Huế; đường cong ấy làm cho dòng song mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như song Xen của Pa-ri, song Da-nuýp của Bu-đa-pét; sông Hương nằm ngay giữa long thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương toả đi khắp phố thị, với những cây đa, cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm những ánh lửa thuyền chai của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chỉ lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc cửa dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm, cơ đồ chỉ là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-téc-bua cũ để ra bể Ban-tích. Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Lê-nin-grát đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi, tôi muốn hoá làm một con chim như đứng co một chân trên con tàu thuỷ tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vỗ tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo. Hai nghìn năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hê-ra-clít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác trăm qua tram nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qu huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.

Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng song này, trong một khoan thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bám âm Của những mái chèo khuya. Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, nhưng bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”… Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!”

Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến rạ đi giữa màu xanh của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng dông tay để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hoá nó lên, tôi gọi đây là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm long người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương Xứ Sở.

[…] Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở nó còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại. Thế kỉ mười tám, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển. Cùng với niềm cổ vũ nồng nhiệt dành cho nó trong mùa xuân Mậu Thân, Huế đã nhận được những lời chia buồn sâu sắc nhất của thế giới về sự tàn phá mà đế quốc Mĩ đã chụp lên những di sản văn hoá của nó. “Các trung tâm lớn của chúng ta về lịch sử, văn hoá, học thuật và về chính quyền rất nhiều. Phải hiểu rằng Huế là một thành phố kết hợp tất cả những cái đó, giống như các thành phố Luân Đôn, Pa-ri và Béc-lin,… Một số trong các di sản đó đã bị phá huỷ lúc Thành Nội Huế bị ném bom. Không thể so sánh sự mất mát này với sự mất mát của một viện bảo tàng hay một thư viện ở Mĩ. Sự phá huỷ những di sản này cũng có tính chất giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh châu âu khi một số công trình của nền văn minh Hi Lạp và La Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhà thờ bị phá hoại”. Đó là sự đánh giá đầy phẫn nộ của chính người Mĩ, Ra-pha-en Li-tao-ơ, Noóc-man U-phốp và nhóm giáo sư Đại học Coóc-nen, trong một tác phẩm khoa học đầy mùi thuốc nổ và hoá chất độc mang tên Cuộc chiến tranh không quân ở Đông Dương.

Tháng trước, tôi được dịp có mặt trong cuộc tiếp đón ở Thành uỷ Huế chào mừng đoàn đại biểu của Hội nghị tổng kết chiến tranh, tại thành phố. Thay mặt Quân uỷ Trung ương, đồng chí Đại tướng phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”… Đồng chí nói, đau cúi xuống ngực, hai bàn tay chắp lại trong cử chỉ kính cẩn của người già mắt ngấn lệ; và người nghe, tất cả đều lặng đi trong cảm xúc đột ngột của một lời thề.

Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Thỉnh thoảng, tôi vẫn còn gặp trong những ngày nắng đem ra phơi, một sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: màu áo điều lục với loại vải vân thưa màu xanh chàm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người, thuở ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng. Đấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của thiên nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông…

Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó: từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, “Dòng sông trắng – lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thướt mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên “như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều báng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều, trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy.

Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng:

– Ai đã đặt tên cho dòng sông?

(Tóm tắt phần thứ hai: Những thành tựu khảo cổ học cho biết, nằm dưới lòng đất làng Thành Trung ngày nay, nơi ngã ba Sình, phía tá ngạn sông Hương, những di tích của thành cổ Hoá Châu được xây dựng từ thời viễn cổ. Đây là một địa điểm có vị trí chiến lược quan trọng nơi biên giới phía Nam của nước Việt cổ, từng chứng kiến nhiêu chiến công chống xâm lược rất oanh liệt của nhân dân ta qua nhiều triều đại phong kiến. Hoá ra sông Hương và thành phố huế có cả một bề dày lịch sử hết sức oai hùng.

Tóm tắt phần thứ ba: Người làng Thành Trung có nghề trông rau thơm. Ở đây cô một huyền thoại kể rằng, vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đố xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? Có lẽ huyền thoại trên đã giải đớp câu hỏi ấy chăng?)
Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bài bút kí xuất sắc, viết tại Huế, ngày 4 – 1 – 1981, in trong tập sách cùng tên. Bài bút kí có ba phần, văn bản ở đây trích phần thứ nhất. Đoạn trích này là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của đoạn văn là những xúc cảm sâu lắng được tổng hợp từ một vốn hiểu biết phong phú về văn hoá, lịch sử, địa tí và văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.

(Ai đã đặt tên cho dòng sông?, NXB Thuận Hoá, Huế, 2002)

Đọc – hiểu văn bản.

Câu 1: Sông Hương vùng thượng lưu được tác giả diễn tả như thế nào? Qua những hình ảnh, chi tiết, liên tưởng và thủ pháp nghệ thuật, hãy chứng minh nét riêng trong lối viết kí của tác giả.
Câu 2: Đoạn tả sông Hương chảy về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ những phẩm chất nào trong ngòi bút của tác giả? Hiệu quả thẩm mỹ của lối viết đó?
Câu 3: Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế có nét đặc trưng gì? Phát hiện của tác giả về nét riêng biệt của sông Hương cho thấy những điều gì trong tình cảm của tác giả với xứ Huế và dòng sông?
Câu 4: Tác giả đã tô đậm những phẩm chất gì của sông Hương qua lịch sử và trong thơ ca? Phân tích cách nhìn độc đáo mang tính phát hiện của tác giả?
Câu 5: Qua đoạn trích, nêu những nét đặc sắc của văn phong tác giả.

Luyện tập.

Anh (chị) tâm đắc nhất với đoạn văn nào trong bài bút ký? Qua đoạn văn đó, hãy phân tích những nét đặc sắc về ý tưởng, hình ảnh và ngôn ngữ của tác giả.


* Soạn bài:

Ai đã đặt tên cho dòng sông?
(Hoàng Phủ Ngọc Tường)

I. Đọc – hiểu văn bản.

Câu 1:

a. Sông Hương vùng thượng lưu mang vẻ đẹp của một sức sông mãnh liệt, hoang dại, bí ẩn, sâu thẳm nhưng cùng có lúc dịu dàng, say đắm.

– Sự mãnh liệt, hoang dại của con sông đựơc thể hiện qua những so sánh: “bản trường ca của rừng già”, những hình ảnh đầy ấn tượng: “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn”. Sự mãnh liệt thể hiện qua những ghềnh thác, cuộn sóng như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn…

– Vẻ dịu dàng, say đắm: sắc màu rực rỡ (“những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”).

– Dòng sông được nhân hoá như “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, rừng già đã hun đúc cho “cô gái” một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng.

b. Ngay từ đầu bài viết người đọc đã cảm nhận được sự cảm nhận tài hoa của ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường: liên tưởng kỳ thú, xác đáng, ngôn từ gợi cảm… tạo sức cuốn hút, hấp dẫn về một con sông mang linh hồn, sự sống.

– Kết thúc đoạn văn, tác giả giới thiệu trọn vẹn con sông (tâm hồn sâu thẳm của nó) vừa dẫn dắt, gợi mở sang đoạn tiếp theo.

Câu 2:

– Lúc này, sông Hương được ví “như người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng” được “người tình mong đợi” đến đánh thức. Kiến thức về địa lý đã khiến tác giả miêu tả tỉ mỉ sông Hương với những khúc quanh và những lưu vực của nó.

– Đoạn văn thể hiện năng lực quan sát tinh thế và sự phong phú về ngôn ngữ hình tượng giúp nhà văn viết được những câu văn đầy màu sắc tạo hình và ấn tượng: “Sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “Sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó trôi đi giữa hai dải đồi sừng sững như thành quách, dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Rồi giữa đám quần sơn lô xô ấy là giấc ngủ nghìn thu của vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu.

– Vận dụng kiến thức về văn hoá, văn học, tác giả tạo cho người đọc ấn tượng về vẻ đẹp trầm mặc, như triết lý, như cổ thi gắn với thành quách, lăng tẩm của vua chúa thuở trước.

→ Tất cả hòa quyện tạo mang lại hiệu quả nghệ thuật khi tác giả miêu tả được vẻ đẹp trầm mặc, cổ điển cùng với nét tươi mới, hiện đại của sự vật

Câu 3:

Sông Hương khi chảy vào thành phố có nét đẹp riêng:

– Nếu ở trên, người đọc cảm nhận phần nào vẻ đẹp man dại, dịu dàng, trầm mặc của con sông, thì giờ đây con sông được khám phá, phát hiện ở sắc thái tâm trạng. Sông Hương gặp thành phố như đến với điểm hẹn tình yêu, trở nên vui tươi và đặc biệt chậm rãi, êm dịu, mềm mại.

– Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên những hình ảnh đầy ấn tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp đến bất ngờ, lý thú, thể hiện tình yêu say đắm với con sông. Đó là những nét bút thật “dịu dàng, tình tứ, đắm đuối”, “chiếc cầu trắng ở thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vầng trăng non”, sông Hương “uốn một cành cũng rất nhẹ sang cồn Hiến”, đường cung ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu, “nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh” làm dòng sông thêm lộng lẫy, con sông ngập ngừng như có “những vấn vương của một nỗi lòng, không nỡ rời xa thành phố…”. Quả đúng như câu thơ của Thu Bồn:

“Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”.

→ Tác giả dành tình cảm yêu mến đặc biệt cho con sông này, thấu hiểu và cảm nhận được vẻ đẹp của dòng sông.

Câu 4:

– Tác giả đã tô đậm cho con sông Hương ấy bao nét thơ thật dịu dàng, thơ mộng mà hoang dã, đa tình, lịch lãm và cổ kính. Từ góc độ văn hóa truyền thống lịch sử tác giả cũng đã khắc họa sông Hương với nét tính cách đăc biệt qua đó cũng tái hiện lại cho bạn đọc những hình ảnh trong lịch sử và gắn liền với những phẩm chất rất riêng của người Huế. Mà đặc biệt hơn là vẻ đẹp của người con gái Huế luôn nhẹ nhàng, bay bổng mà rất đằm thắm.

– Cách nhìn độc đáo của tác giả: từ góc độ văn hóa truyền thống, giàu chất thơ.

Câu 5:

Nét đặc sắc của văn phong tác giả qua đoạn trích:

– Soi bóng tâm hồn với tình yêu say đắm, lắng sâu niềm tự hào tha thiết đối với quê hương, xứ sở vào đối tượng miêu tả, khiến đối tượng trở nên lung linh, huyền ảo, đa dạng như đời sống, như tâm hồn con người.

– Sức liên tưởng kỳ diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lý, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật và trải nghiệm của bản thân.

– Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tư từ như: so sánh, nhân hoa, ẩn dụ.

– Có sự kết hợp hài hoà của cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và khách quan.

II. Luyện tập.

Anh (chị) tâm đắc nhất với đoạn văn nào trong bài bút ký? Qua đoạn văn đó, hãy phân tích những nét đặc sắc về ý tưởng, hình ảnh và ngôn ngữ của tác giả.

“Trong những dòng sông đẹp ở cả nước… chân núi Kim Phụng”

– Cái hay về ý tưởng:

+ Xây dựng nhiều trạng thái, cung bậc cảm xúc của con sông

+ Con sông Hương lúc này trở thành sinh thể có hồn, có tâm hồn, tính cách, bản ngã

– Hình ảnh: nhiều màu sắc, lung linh, huyền ảo, trầm ấm như đặc tính của dòng sông

– Ngôn ngữ: cô đọng, súc tích, diễn tả được thần thái của dòng sông, những cung bậc cảm xúc của chính nhà thơ khi cảm nhận về dòng sông.


Phân tích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phủ Ngọc Tường)

  • Mở bài:

– Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, gắn bó mật thiết với xứ Huế. Ông chuyên viết về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí…Tất cả được thể hiện trong lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. Tác phẩm tiêu biểu: Ai đã đặt tên cho dòng sông, Hoa trái quanh tôi, Ngọn núi ảo ảnh…

Bút kí  “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết vào tháng 1- 1981 tại Huế. Trong những dòng mở đầu tác phẩm tác giả cho biết: mùa thu ông ngồi đọc Kiều dưới mái rêu phong của chiếc cổng vòm quay ra mặt sông Hương trong khung cảnh rất thơ. Trong trạng thái tiêu diêu giữa cõi thực và thơ, ông cảm nhận ra âm hưởng của Huế trên mỗi trang Kiều. Ông nghĩ về sông Hương, Huế và “Truyện Kiều”: “Chính sông Hương và thành phố của nó vẫn gợi cho tôi như một vang bóng của thời gian, hình tượng của cặp tình nhân lí tưởng”. Ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, tình yêu nước gắn với tình yêu thiên nhiên và truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời của dân tộc. Tình yêu sông Hương với các giá trị văn hóa, lịch sử của nó đã mở lối cho sự ra đời của bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.

  • Thân bài:

Trong một cuộc phỏng vấn nhân dịp tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường được đưa vào chương trình SGK “Trong gia tài sáng tác của mình ông xếp bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ở vị trí nào?”.

– “Đây là bút kí dài nhất và tâm huyết nhất của tôi về Huế. Tôi mang cả tâm huyết vẽ nên một dòng sông vốn y như nó vốn có. (Dòng sông của văn hóa, lịch sử, huyền thoại… với vẻ đẹp thật của thiên nhiên và có tính nhân văn). Đó là một thứ tài sản tôi muốn gửi lại cho thế hệ mai sau với lời nhắn gửi: sông Hương như một viên ngọc quý mà thiên nhiên đã ban tặng cho Huế. Hãy bảo vệ vẻ đẹp ấy để nó trường tồn mãi mãi, đừng tham vọng tác động làm thay đổi nó dù điều này không phải dễ… ”.

1. Nhan đề tác phẩm:

– Nhan đề bài bút kí là “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” – một câu hỏi bâng quơ gợi sự chú ý của mọi người về cái tên đẹp của con sông: sông Hương, sông thơm nhưng lại là một tín hiệu thẩm mĩ. Câu hỏi đưa nhà văn thực hiện cuộc hành trình “về nguồn” đối với sông Hương. Không phải về nơi nó bắt đầu hình thành mà về với vẻ đẹp thiên nhiên – văn hóa – lịch sử của nó.

– Nhan đề đó còn được lặp lại ở giữa và cuối tác phẩm tạo thành một trục liên tưởng xuyên suốt bài kí. Nó có vai trò kết nối các nội dung của tác phẩm thành một chỉnh thể thống nhất. Nhan đề là cái cớ để nhà văn tìm hiểu, lí giải vẻ đẹp của con sông. Kết thúc tác phẩm nhà văn đã trả lời bằng một huyền thoại: “Người làng Thành Trung… thơm tho mãi mãi” và quan niệm đầy nhân văn: “ước vọng đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử”.

2. Vẻ đẹp hình tượng sông Hương:

Khi khám phá vẻ đẹp đa dạng của sông Hương, cần thấy được các điểm nhìn (thường gọi là góc nhìn): thiên nhiên, văn hóa, lịch sử.

a. Vẻ đẹp sông Hương ở góc nhìn thiên nhiên:

– Với câu hỏi gợi tìm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” bằng bước chân rong ruổi Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm về cội nguồn và dòng chảy của sông Hương để khám phá nó.

+ Sông Hương ở đoạn thượng nguồn, đi qua giữa lòng Trường Sơn (gian truân, sôi nổi, mãnh liệt): sông Hương mang trong mình vẻ đẹp dữ dội, hoang sơ khiến tác giả hình dung là “một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”, “Rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn… đỗ quyên rừng”.

+ Dòng sông mang vẻ đẹp “phóng khoáng và man dại”, “sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di-gan”.

+ Dòng sông “rầm rộ” và “mãnh liệt” (Hương Giang “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn và mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”).

+ Sông Hương trở thành “bản trường ca của rừng già”, đậm chất sử thi.

– Sông Hương ở đoạn trung – hạ lưu khi đi qua vùng đất đế đô xứ Huế (êm đềm, dịu dàng, sâu lắng):

+ Sông Hương dịu dàng và yên ả giống như “người con gái đẹp ngủ mơ màng” được đánh thức dậy với những phẩm chất nữ tính nhất để bước vào hành trình đi tìm tình yêu: “uốn mình theo những đường cong thật mềm”, “dòng sông mềm như tấm lụa”.

+ Khi sông Hương liên tục đổi dòng, giống như người con gái đang băn khoăn kiếm tìm đường về với người yêu: thành phố Huế. Khi sông Hương phát hiện ra thành phố Huế của mình, cô gái ấy chợt dâng đầy cảm xúc: tươi vui, yên tâm.

+ Giữa lòng thành phố Huế, dòng sông trở nên tĩnh lặng, trôi thật chậm giống như sự say đắm của đôi lứa trong tình yêu nồng nàn “uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến khiến dòng sông mềm hẳn đi như tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu, giống điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”.

+ Khi sông Hương trôi đi, cái dáng uốn cong ôm lấy thành phố Huế được tác giả hình dung như sự lưu luyến nghẹn ngào vì phải chia li của lứa đôi “đột ngột rẽ dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”, “đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.

– Sông Hương và thiên nhiên Huế:

+ Sông Hương mang vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ” khi trở thành “người mẹ phù sa” của một vùng văn hoá đế đô.

+ Dòng sông mang vẻ đẹp huyền ảo và biến ảo. Lần theo dòng chảy của con sông Hương, ta bắt gặp những bức tranh thiên nhiên đẹp mượt mà: vẻ đẹp đa dạng trong thời gian và không gian. Sông Hương phản quang vẻ đẹp biến ảo của Huế: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”.

+ Mỗi đoạn, mỗi khúc, sông Hương lại có vẻ đẹp riêng (chú ý sự quan sát và sự gợi tả tinh tế của tác giả ở từng khúc sông):

+ Hương Giang mang vẻ đẹp trầm mặc khi lặng lẽ chảy dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng tẩm đồ sộ mà kiêu hãnh âm u của các vua chúa triều Nguyễn.

+ Sông Hương có vẻ đẹp mang màu sắc triết lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng của tiếng chuông chùa Thiên Mụ.

+ Dòng sông có vẻ đẹp “vui tươi” khi đi qua “những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”.

+ Sông Hương có vẻ đẹp “mơ màng trong sương khói” khi nó rời xa thành phố để đi qua những bờ tre, luỹ trúc và những hàng cau thôn Vĩ Dạ.

+ Hương Giang mang vẻ đẹp trữ tình thơ mộng như thiếu nữ dịu dàng, kiều diễm.

– Sông Hương và con người Huế:

+ Thiên nhiên luôn gắn bó với con người. Qua điệu chảy của dòng sông nhà văn thấy được tính cách con người Huế: mềm mại, chí tình “mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.

+ Qua màu sắc trời Huế, màu sương khói trên sông Hương nhà văn thấy được trang phục trang nhã, dịu dàng của các cô gái Huế: “sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: màu áo điều lục… sau tiết sương giáng”.

b. Vẻ đẹp sông Hương từ góc nhìn lịch sử:

– Nhất quán với cách nhìn sử thi, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm ngời lên những vinh quang chói lọi của sông Hương trong chiều dài lịch sử. Sông Hương trở thành nhân chứng lịch sử và chính dòng sông cũng trở thành dòng sông lịch sử. Bản thân Hương Giang cũng là một pho sử.

– Sông Hương hóa thân từ vẻ dịu dàng, trầm tư để trở thành chủ nhân, chứng nhân của xứ Huế anh hùng từ thời cổ đại, qua trung đại, đến hiện đại “là dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng… qua những thế kỉ trung đại”.

– Sông Hương từng là dòng sông bảo vệ biên thuỳ Tổ quốc thời Đại Việt: “Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc”. Là dòng Linh Giang (dòng sông thiêng) ghi dấu những thế kỉ vinh quang thuở các vua Hùng, từng soi bóng “kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, chứng kiến thời đại mới Cách mạng tháng Tám, kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ…

c. Vẻ đẹp sông Hương từ góc nhìn văn hóa:

Sông Hương mang trên mình nó những sinh hoạt văn hoá, trở thành một bảo tàng sống về văn hoá cổ xưa của cố đô Huế. Trong suy tưởng của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương như người mẹ sản sinh và nuôi dưỡng các giá trị văn hóa cổ truyền của vùng đất cố đô.

– Sông Hương – dòng sông âm nhạc:

+ Từ âm thanh của dòng sông (tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo khua sóng đêm khuya, tiếng nước vỗ mạn thuyền…) đã hình thành những làn điệu hò dân gian và nền âm nhạc cổ điển Huế. Và rồi cũng chính trên dòng sông ấy, những câu hò Huế vang lên mênh mang, xao xuyến…

+ Viết về sông Hương nhiều lần nhà văn đã liên tưởng đến “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đại thi hào đã từng có thời gian sống ở Huế, những trang Kiều ra đời từ mảnh đất có truyền thống nhã nhạc cung đình. Đó là cơ sở để Hoàng Phủ Ngọc Tường hóa thân vào một nghệ sĩ già, nghe những câu thơ tả tiếng đàn của nàng Kiều, chợt nhận ra âm hưởng của âm nhạc cung đình và bật thốt lên “Tứ đại cảnh”.

– Sông Hương – dòng sông thi ca:

– Sông Hương gắn với thiên tài Nguyễn Du, gắn với kiệt tác Truyện Kiều.

– Sông Hương còn gắn với tên tuổi bao thi hào, bao danh nhân văn hoá khác (nhà thơ Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà…). Có một dòng thi ca về sông Hương, về dòng sông không lặp lại mình.

+ Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm sống dậy những vần thơ biếc xanh của Tản Đà về xứ Huế “Dòng sông trắng – lá cây xanh”. Hình ảnh thơ này cùng với câu chữ của tác giả “màu cỏ lá xanh biếc” là minh chứng cho sự tương giao của những tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với sắc biếc của thiên nhiên Huế.

+ Nhà văn cũng làm sống dậy một sông Hương hùng tráng bất tử “như kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát, một “mối quan hoài vạn cổ” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan…

Bằng vốn kiến văn phong phú của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lay động linh hồn của con sông mà tên gọi của nó đã đi vào văn chương nghệ thuật mà theo tác giả “dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”.

3. Tình yêu quê hương, đất nước của tác giả qua bài kí.

– Bài kí ca ngợi dòng sông Hương và rộng hơn là vùng đất cố đô Huế:

+ Sông Hương gắn với thiên nhiên mang vẻ đẹp hùng vĩ và đặc biệt là vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng.

+ Sông Hương gắn với vẻ đẹp văn hoá Huế và tâm hồn Huế.

+ Sông Hương gắn với lịch sử vẻ vang của Huế.

– Bài kí thể hiện niềm yêu mến, tự hào của tác giả đối với xứ Huế và rộng hơn là tình yêu Tổ quốc. Lòng yêu quê hương, đất nước của Hoàng Phủ Ngọc Tường có những nét biểu hiện đặc sắc:

+ Yêu thiên nhiên.

+ Tự hào trước truyền thống lịch sử, truyền thống văn hoá dân tộc.

+ Tự hào trước vẻ đẹp tâm hồn của con người quê hương xứ sở.

4. Đặc sắc nghệ thuật:

a. Sáng tạo hình ảnh:

– Những so sánh liên tưởng của Hoàng Phủ Ngọc Tường phong phú, đa dạng và cũng thật đặc sắc, độc đáo, đặc biệt là những hình ảnh so sánh nhân cách hoá:

– Tác giả nhìn dòng sông như người thiếu nữ, có lúc như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, nhưng nói chung sông Hương được cảm nhận như một thiếu nữ Huế.

– Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên tưởng sông Hương như thiếu nữ Huế với vẻ đẹp phong phú, đa dạng của tính cách: tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc; đa tình và kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình; khéo trang sức song không loè loẹt, phô trương, mà giống như cô gái Huế ngày xưa trong sắc áo điều lục…

b. Lời văn giàu chất thơ:

Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường thiên về chất thơ thi vị, ngọt ngào:

– Viết về sông Hương, về miệt vườn xứ Huế hầu như tác giả không nói đến thiên nhiên khắc nghiệt mà chỉ tập trung thể hiện vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên và con người.

– Khi viết về chất sử thi của Hương Giang, ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đậm chất trữ tình: “Sông Hương là vậy, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. (Thông thường, sử thi là chiến công, là sự hào hùng hay đi với màu đỏ, nhưng sông Hương lại là “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”: sử thi mà trữ tình, là bản hùng ca và cũng là bản tình ca dịu dàng tươi mát. Cách so sánh này rất phù hợp với Huế, làm nổi bật lên nét độc đáo của Huế đẹp và thơ).

  • Kết bài:

Đoạn trích bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Đoạn trích đã gợi ra vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của đoạn văn là những xúc cảm sâu lắng được tổng hợp từ một vốn hiểu biết phong phú về văn hoá, lịch sử, địa lí và về văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa. Ông xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.

Phân tích bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Làm rõ ngòi bút tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Cảm nhận vẻ đẹp đa diện của dòng sông Hương qua bút kí Ai đã Đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Cảm nhận về sông Hương trong mối quan hệ với kinh thành Huế qua đoạn trích bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang