Cảm nhận của anh, chị về đoạn thơ sau:
“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”
(Trích Chinh phụ ngâm, nguyên tác Đặng Trần Côn, dịch giả Đoàn Thị Điểm, sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 2, NXB Giáo dục , 2010)
- Mở bài:
– Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm. Nêu vấn đề: Đoạn thơ bộc lộ nỗi niềm thương nhớ chồng và khát khao đoàn tụ cuả người chinh phụ.
- Thân bài:
* Xuất xứ đoạn thơ:
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là một trong những đoạn thơ đặc sắc diễn tả tình cảnh và tâm trạng của người chinh phụ phải sống trong cảnh cô đơn, buồn khổ trong thời gian chồng đi chiến trận. Phần đầu đoạn trích là nỗi lòng ngóng trông, chờ đợi chồng trong mỏi mòn, vô vọng của người chinh phụ.
* Phân tích đoạn thơ:
+ Người chinh phụ mong muốn gửi gắm nỗi lòng của mình đến với người chồng nơi biên ải xa xôi:
“Lòng này gửi gió đông có tiện?
……………..
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”
– Đoạn thơ sử dụng câu hỏi tu từ, điển tích (non Yên), nghệ thuật ẩn dụ (nghìn vàng), điệp từ (nhớ chàng), từ láy (thăm thẳm, đau đáu)… không chỉ nhằm khắc họa nỗi nhớ nhung mà sâu hơn là khát khao hạnh phúc của người chinh phụ.
+ Cảnh vật và lòng người như tương giao, tương cảm. Câu thơ mang tính triết lý, khái quát được quy luật tình cảm của con người: Cảnh buồn người thiết tha lòng…
+ Đoạn thơ là lời bộc lộ trực tiếp của người chinh phụ. Nỗi niềm được giãi bày vừa sâu sắc vừa trở nên tha thiết, đầy xúc động.
* Đánh giá, liên hệ:
+ Đoạn thơ mang nội dung nhân đạo sâu sắc, mới mẻ: Là tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa; niềm đồng cảm sâu sắc trước tình cảnh của người phụ nữ; thể hiện khát khao hạnh phúc lứa đôi vốn ít được thơ văn giai đoạn trước đề cập đến.
+ Đoạn thơ đi sâu miêu tả thế giới nội tâm nhân vật với nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc.
+ Thân phận và nỗi lòng của người phụ nữ là cảm hứng sáng tác trong nhiều tác phẩm nổi tiếng của văn học trung đại giai đoạn này như: Cung oán ngâm, Truyện Kiều, thơ Hồ Xuân Hương.
- Kết bài:
– Đánh giá chung về giá trị tác phẩm nói chung và đoạn trích nói riêng. Khẳng định sức sống mãnh liệt của tác phẩm văn học chân chính.
Tham khảo:
Nếu như ở 16 câu đầu người chinh phụ một mình trong căn phòng quạnh vắng với tâm trạng cô đơn, lẻ loi, nỗi trống trải trong lòng thì đến 8 câu cuối, nỗi nhớ và nỗi khát khao hạnh phúc lứa đôi bỗng trào dâng trong lòng và trở nên khắc khoải hơn bao giờ hết. Mượn gió đông để gửi yêu thương cho chồng . Đó là ước muốn , là khát khao được biết tin tức về chồng mình:
“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.”
Tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, kết hợp với điển cố (non Yên) để diễn tả nỗi nhớ của nhân vật. “Lòng này” là sự thương nhớ khôn nguôi, vì đã trải qua nhiều đợi chờ. Gió đông là gió mùa xuân. Trong cô đơn, người chinh phụ chỉ biết hỏi gió,nhờ gió đưa tin tới người chồng yêu thương nơi chiến địa xa xôi, nguy hiểm, nơi non Yên nghìn trùng. Non yên, một địa danh cách xa Thiểm Tây, Trung Quốc hơn hai ngàn dặm về phía bắc, nơi chiến trận đầy gian khổ.
Nàng hỏi gió,nhờ gió nhưng ”có tiện” hay không? Nàng mong gió hãy mang nỗi nhớ của nàng nói với người chồng ngoài biên cương. Sự cô đơn trong lòng người chinh phụ ngày càng khắc khoải. Làm sao tới được non Yên,nơi người chồng đang “nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh?” Cùng với những từ ngữ trang trọng “gửi nghìn vàng”, “xin” đã giúp người đọc thấy được không gian, nỗi nhớ được mở ra thật mênh mông, vô tận, khắc sâu nỗi cô đơn, hiu quạnh. Thế nhưng hiện thực thật phũ phàng, đau xót :
“Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”
Việc sử dụng từ láy ‘thăm thẳm” đã nói lên được nỗi nhớ da diết của người chinh phụ .Mỗi nhớ thương ấy đè nặng trong lòng, triền miên theo thời gian, “đằng đẵng” không thể nguôi ngoai. Nỗi nhớ ấy được cụ thể hóa bằng độ dài của không gian “đường lên bằng trời”.
Có thể nói, dịch giả Đoàn Thị Điểm đã có một cách nói rất sâu sắc để cực tả nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ.Nỗi nhớ thương ấy, tiếng lòng thiết tha ấy lại được diễn tả qua âm điệu triền miên của vần thơ song thất lục bát với thủ pháp nghệ thuật liên hoàn, điệp ngữ. Cả một trời thương nhớ mênh mông. Nỗi buồn triền miên, dằng dặc vô tận .
Sau khi hỏi “gió đông”để bày tỏ niềm thương nỗi nhớ chồng, cuối cùng đọng lại trong nàng là nỗi đau, sự tủi thân:
“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu ,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
Ý của câu như muốn nói lên sự xa cách nghìn trùng , với biển trời rộng lớn , xa “thăm thẳm” không hiểu cho “nỗi nhớ chàng”của người vợ trẻ.Nỗi nhớ “đau đáu” trong lòng. Đau đáu nghĩa là áy náy,lo lắng,day dứt khôn nguôi. Có thể nói qua cặp từ láy: ”đằng đẵng” và “đau đáu”, dịch giả đã thành công trong việc miêu tả những thương nhớ, đau buồn, lo lắng của người chinh phụ một cách cụ thể,tinh tế,sống động. Tâm trạng ấy được miêu tả trong quá trình phát triển mang tính bi kịch đáng thương. Ở hai câu cuối, nhà thơ lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm cảnh :
“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”
Giống như tâm sự Thúy Kiều trong Truyện Kiều: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”, người chinh phụ có lúc thấy cảnh vật vô hồn, thê lương nhưng có khi lại cảm nhận cả khoảng không gian và cảnh vật như đang hối thúc, giục giã, đổi thay, không tìm thấy đâu sự hô ứng, đồng cảm giữa tình người với thiên nhiên.
Niềm thương nỗi nhớ cứ kéo dài từ ngày này sang ngày nọ. Nhìn cành cây ướt dẫm sương đêm mà lòng nàng lạnh lẽo . Nghe tiếng trùng kêu rả rích thâu canh như tiếng đẫm sương đêm mà thêm nhói lòng, buồn nhớ. Âm thanh ấy,cảnh sắc ấy vừa lạnh lẽo vừa buồn,càng khơi gợi trong lòng người vợ trẻ,cô đơn biết bao thương nhớ,lo lắng,buồn rầu.
Với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, điệp từ điệp ngữ, nghệ thuật miêu tả nội tâm, đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế những cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ ở nàng khao khát được sống trong hạnh phúc, tình yêu lứa đôi. Đó là nỗi nhớ da diết, nhớ tới thầm đau của người chinh phụ. Nỗi đau được chuyển từ lòng người sang cảnh vật.
Hàng loạt những hình ảnh ẩn dụ, từ ngữ gợi tả lại càng xoáy mạnh vào nỗi đau trong lòng người chinh phụ. Qua đó người đọc cũng cảm nhận được một cách sâu sắc niềm thương cảm, thấu hiểu của tác giả đối với nỗi đau của người phụ nữ có chồng ra trận. Đoạn trích còn thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thong sâu sắc của tác giả với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phi nghĩa.