Cảm nhận đoạn trích: Trong những dòng sông đẹp … bát ngát tiếng gà trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Cảm nhận đoạn trích: “Trong những dòng sông đẹp … bát ngát tiếng gà” trong bút kí ức “Ai đã đặt tên cho dòng sông”của Hoàng Phủ Ngọc Tường

  • Mở bài:

Ai đó đã từng viết “Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương và để nhớ như đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”. Vâng, ai rồi cũng có một dòng sông “để thương và để nhớ” nhưng nỗi nhớ mang theo ở mỗi người lại một vẻ. Với Nguyễn Tuân, dòng sông mang theo là Đà giang hung bạo mà trữ tình, Tế Hanh nhớ “con sông xanh biếc”, Hoài Vũ mênh mang phù sa Vàm Cỏ, Quang Dũng nào quên “khúc độc hành” của dòng sông Mã yêu thương…thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại cùng nàng Hương tương tư với kinh thành Huế qua tuỳ bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông”.

  • Thân bài:

Với sự hiểu biết sâu sắc về Huế, về thuỷ trình của sông Hương kết hợp văn phong khoa học, chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều – Hoàng Phủ Ngọc Tường quả thực đã mang đến những xúc cảm nồng nàn về Hương giang – dòng sông của thơ ca. Tất cả những giá trị đặc sắc ấy đã được nhà văn tập trung sâu sắc qua đoạn trích:

Trong những dòng sông đẹp […] bát ngát tiếng gà”

Là nhà văn trưởng thành ở Huế, gắn bó với Huế và đã hơn nửa cuộc đời sống bên cạnh dòng sông Hương trước khi viết tuỳ bút này. Nên hơn ai hết, Hoàng Phủ Ngọc Tường rất am hiểu Hương giang. Sông Hương với ông cũng như một người tình mà suốt cả cuộc đời ông trăn trở đi tìm và lý giải cội nguồn tên gọi. Tuỳ bút này được nhà văn viết tại Huế năm 1981, in trong tập cùng tên. Đoạn trích trên là đoạn nằm ở phần đầu của bút ký – sông Hương ở thượng nguồn Trường Sơn và đoạn chảy qua đồng bằng Châu Hoá.

Mở đầu đoạn trích tác giả khẳng định: “trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến hình như chỉ Sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Trong lời mở đầu nồng nàn ấy, tác giả đã đặt vị trí của sông Hương ngang bằng với những “dòng sông đẹp” của thế giới – nhưng trên hết tác giả khẳng định rằng “chỉ Sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Lời khẳng định ấy cũng chính là niềm tự hào của tác giả về dòng sông quê hương – dòng sông thi ca đất mẹ.

Đằng sau lời khẳng định ấy, tác giả đã nhân cách hóa, sử dụng bút pháp miêu tả kết hợp nhiều động từ mạnh làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương ở đại ngàn. Sông Hương ở thượng nguồn có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Bằng vốn am hiểu địa lý, cấu trúc lãnh thổ cũng như am hiểu địa hình, tác giả đã làm hiện lên thật sống động hình ảnh của sông Hương ở rừng già. Trong cái nhìn của nhà văn, Sông Hương hiện lên như một “cô gái Di Gan phóng khoáng và man dại”. Dòng chảy ấy được tác giả so sánh ví von như một điệu múa của cô gái Di Gan, một vũ khúc giữa rừng già: “một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại, ngàn mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.

Câu văn kéo dài được ngăn cách bởi những dấu phẩy tạo thành kiểu câu phức trùng điệp. Sông Hương qua những câu văn ấy thật đẹp. Hai nét tính cách hùng vĩ và thơ mộng đan cài dệt nên chất thơ, chất hùng của dòng sông mang tên một người con gái. Chỉ mấy lời văn mà tác giả đã huy động một loạt tính từ, động từ, phép so sánh, nhân cách hóa… làm dòng sông trở nên sinh động, có hồn cốt: tác giả gọi Sông Hương là “bản trường ca”, “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy”, “bí ẩn”… nhưng đằng sau nét dữ dội hùng vĩ ấy chính là một sông Hương thơ mộng trữ tình với mái tóc thướt tha, kiều diễm, bung nở “giữa những dặm dài” và  “cài lên màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng” làm náo nức lòng người.

Sông Hương không chỉ có ngoại hình “phóng khoáng và man dại” mà còn hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ. Trường Sơn và sông Hương có mối tình “nửa cuộc đời” khăng khít, bền chặt. Chính vì có nửa đời gắn bó với Trường Sơn mà sông Hương đã được đại ngàn ban cho “một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Cũng chính rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng của người con gái để khi ra khỏi rừng già Trường Sơn, sông Hương nhanh chóng mang một “sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.

Ngòi bút giàu chất thơ lai láng của Hoàng Phủ Ngọc Tường quả có sức ru lòng người. Nếu trước đó sông Hương hiện lên với những từ ngữ góc cạnh, dữ dội “cuộn xoáy, mãnh liệt, rầm rộ” làm toát lên nét linh thiêng, hùng vĩ của dòng chảy thượng nguồn, thì ở đây nhiều tính từ mĩ miều đã xuất hiện để tôn vinh vẻ đẹp trời phú của Hương giang: “dịu dàng, trí tuệ, người mẹ phù sa”…Những mỹ từ ấy cũng đã góp phần tô đậm thêm nét nữ tính, yêu kiều của nàng Hương đắm say và bí ẩn.

 Vẻ đẹp cô gái Di gan ấy quả thực khó đoán biết, vì mỗi một trường đoạn  nàng Hương lại mang một vẻ đẹp khác nhau. Khi ra khỏi Trường Sơn, dòng sông đã “đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”. Từ đây nàng khoá chặt tâm hồn thẳm sâu của mình “không muốn bộc lộ” và tiếp tục cuộc hải trình đi tìm “người tình mong đợi”.

Có đoạn, tác giả thêm cái tôi của mình vào để bàn luận: “nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua”. Lời trữ tình ngoại đề như thể một chút thanh minh cho cô gái Hương giang, vừa như toát lên vốn am hiểu sâu sắc thuỷ trình của dòng sông thơ mộng. Từ đây ngòi bút của nhà văn tiếp tục xuôi dòng về Châu Hoá – cánh đồng phù sa bãi bồi và đầy hoa dại.

Khi chảy qua miền địa hình đồng bằng, tác giả ví von sông Hương giống như “người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại”.

Ở đoạn văn tiếp theo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả Sông Hương ở điểm nhìn vừa xa vừa gần, vừa thi ca vừa hội hoạ.  Ở những điểm nhìn xa, sông Hương hiện lên đẹp ở những đường cong quyến rũ. Liên tưởng tới cổ tích “Nàng công chúa ngủ trong rừng” – Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm toát lên vẻ đẹp trong sáng, hồn nhiên của dòng sông, để từ đó, ngòi bút của nhà văn cuốn hút người đọc vào thuỷ trình đầy mê hoặc của dòng sống. Tác giả viết “phải nhiều thế kỷ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại”. Nhưng đánh thức rồi người tình không biết đã đi đâu? Hương giang đã thức dậy ngơ ngác đi tìm. Chính điều này tạo nên điểm nhìn hội hoạ đầy mê hoặc. Rời xa vùng núi, sông Hương chuyển dòng một cách liên tục. Sự chuyển dòng này tạo nên “những khúc quanh đột ngột” mà nhà văn gọi đó là “một cuộc tìm kiếm có ý thức” về người tình tương lai.

Vô tình cuộc tìm kiếm đã tạo nên cho dòng sông một vẻ đẹp thơ mộng trữ tình.  Sông Hương thật gợi cảm biết bao dưới ngòi bút của nhà văn, đó là dòng sông uốn khúc như “những đường cong thật mềm”, có lúc “mềm như tấm lụa”. Đẹp nhất của đường cong mềm mại, thướt tha ấy của cô gái Hương Giang chính là đoạn “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. 

Đoạn văn sử dụng phép liệt kê: điện Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán, Thiên Mụ… mang đến cho người đọc hình dung về vẻ đẹp của những danh thắng Huế đô đã đi vào dư địa chí. Ngoài ra cách dùng từ ngữ của nhà văn cũng gợi hình dung về dòng chảy trữ tình của con sông: “vấp – chuyển hướng – vòng qua – vẽ một hình cung – ôm lấy – xuôi dần…”. Hệ thống động từ đặc tả dòng chảy ấy làm sông Hương hiện lên chân thực, sắc nét, có hồn như một sinh thể sống động và giàu sức sống.

Nhà văn quan sát ở điểm nhìn gần hơn và cảm nhận được “từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trảng để sắc nước trở nên xanh thẳm”. Đi trong “dư vang” là đi trong âm vang, trong sự vang vọng của đại ngàn Trường Sơn. Dòng chảy ấy dù uốn quanh, lượn vòng nhưng lưu tốc vẫn còn mạnh mẽ khó kiềm toả. Nhưng khi về đến những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, dòng sông đã phần nào được kiềm chế sức mạnh.

Từ đây chỉ còn sắc nước xanh thẳm, hiền hoà. Sắc xanh thẳm của nước hoà vào bóng dáng hùng vĩ của “hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo” tạo nên vẻ đẹp như bức đồ hoạ mà ca dao người Huế từng ngợi ca “Đường vô xứ Huế quanh quanh – Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ”. Sắc nước hoà vào sắc núi, sắc đồi và ánh chiếu lên bầu trời Tây Nam thành phố cái sắc màu chỉ riêng Huế mới có: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Cái sắc màu không trộn lẫn ấy có lần cũng đã thổn thức trong thơ của Đoàn Thạch Biền:

“Đã bốn lần đến Huế
Vẫn lạ như lần đầu
Sông Hương lơ đãng chảy
Nắng tím vướng chân cầu”

Không chỉ vậy, Hương Giang còn đẹp bởi “vẻ đẹp trầm mặc như triết lý, như cổ thi”. Giữa đám quần sơn lô xô, sông Hương như trầm mặc hẳn đi. Bởi nàng đang đi qua một “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”.

Kết bài:

Đoạn trích sử dụng bút pháp miêu tả, nhân cách hoá, phép tu từ so sánh, liên tưởng độc đáo, ngôn ngữ vừa trí tuệ vừa giàu chất thơ, chất hoạ, giọng văn mượt mà, truyền cảm tạo nên chất trữ tình đằm thắm, thiết tha. Dường như sông Hương khi qua vùng địa lý này đã cúi đầu tưởng niệm những anh linh đã khuất, như tưởng niệm cả một thời dĩ vãng vàng son. Sự trầm mặc của dòng sông như nét đẹp văn hoá của người Huế vốn coi trọng yếu tố tâm linh và nhất là sự thành kính với các bậc tiền nhân. Có lẽ vì vậy mà mặt nước Hương giang bỗng trở nên phẳng lặng và kéo dài mênh mang cho đến khi hoà vào “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Đó là vẻ đẹp cổ thi trầm mặc, cổ kính mà hiện đại đã đi vào thi ca, văn học của bao thi sĩ, văn nhân bao đời.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang