Cảm nhận lòng yêu đời và ham sống của tuổi trẻ trong thơ Xuân Diệu
Nếu phải chọn một nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ Mới (1930-1945) mọi người sẽ không chút ngần ngại chọn ngay Xuân Diệu, một nhà thơ được nhà phê bình nổi tiếng Hoài Thanh xem là “mới nhất trong các nhà thơ mới”. Với hai tập Thơ Thơ (1936) và Gửi hương cho gió (1945), Xuân Diệu được tôn vinh là “Ông hoàng thơ tình”. Hai tập thơ này cùng chung một mạch cảm xúc là say đắm tình yêu và khao khát hạnh phúc đến cuồng nhiệt. Xuân Diệu tìm nguồn cảm hứng lãng mạn trong ngay cuộc đời trần thế. Mà cuộc đời trần thế thì luôn bị giới hạn bởi thời gian. Vì thế, càng yêu đời, yêu thiết tha cuộc sống, Xuân Diệu càng luôn bị ám ảnh bởi thời gian. Thời gian trong thơ Xuân Diệu không chỉ là cảm xúc, là thi hứng mà còn là nhân tố kiến trúc của tác phẩm nghệ thuật. Có thể nói, Xuân Diệu nhìn con người bằng con mắt thời gian. Chất Xuân Diệu, phong cách thơ Xuân Diệu là ở đó.
Trước Xuân Diệu, các nhà thơ đã nói nhiều đến thời gian. Xưa, Nguyễn Du đã từng than: “Ngày vui ngắn chẳng tày gang”. Gần hơn, Tản Đà cũng tặc lưỡi: “Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê”. Nhưng chỉ với Xuân Diệu, thời gian mới trở thành nỗi ám ảnh.
Trước hết, ta phải hiểu vì sao Xuân Diệu lại nói nhiều về thời gian? Có thể dùng ý kiến của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh để lí giải điều này: “Nhìn một cách tổng quát, toàn bộ sự nghiệp văn học của Xuân Diệu thấy có một tư tưởng chi phối tất cả, ấy là niềm khao khát giao cảm với đời – cuộc đời hiểu theo nghĩa chân thật và trần thế nhất!”. Thật vậy! Nếu cùng thời Xuân Diệu, Thế Lữ thoát lên tiên, Huy Cận giải bày nỗi sầu lên cỏ cây, sông nước, Vũ Hoàng Chương đến với thơ say để quên thực tại chán chường thì Xuân Diệu rất nhập thế. Ông luôn gắn bó, quyến luyến với cuộc sống, với cảnh và người nơi trần thế này.
“Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn
Làm dây leo quấn quýt cả mình xuân
Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút màu dưới đất”
Có thể nói cuộc đời Xuân Diệu là mùa xuân kì diệu, là cây nến cháy bùng ngọn lửa tình yêu cuộc cháy bùng với tất cả cường độ ánh sáng, cháy đến tận cùng dù trong một phút giây. Xuân Diệu không chấp nhận cuộc sống kéo dài thời gian mà mờ nhạt theo tối tăm:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”
“Hãy để cho tôi được giã từ
Vẫy chào cõi thực để vào hư
Trong hơi thở chót dâng trời đất
Cũng vẫn si tình đến ngất ngư”
Đối với Xuân Diệu, điều kì diệu nhất là cuộc sống, điều đẹp đầy ý nghĩa nhất là con người, tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ ham sống, tha thiết với đời và khao khát tình yêu đến mê say, Xuân Diệu yêu trần thế này với tất cả vẻ bình dị, trong trẻo và nồng nhiệt nhất, bằng trái tim đắm đuối đến phút cuối cùng. Tình yêu mê say ấy của Xuân Diệu luôn gắn liền với cảm thức thời gian, nhất là hai mùa đẹp nhất trong năm: Xuân và Thu.
Hãy nghe chính Xuân Diệu tâm sự: “Với lòng tôi, trời đất chỉ có hai mùa: Xuân và Thu, hai mùa đặc biệt ý nhị, hai mùa có bình minh… Từ xuân sang hè là từ ấm sang nóng, từ thu sang đông là từ mát sang lạnh, sự thay đổi làm ta bực tức mà lại không có gì thực mới cả; đông với hè chỉ là sự thái quá của thu với xuân… Xuân với thu là hai bình minh trong một năm, sự thay đổi hệ trọng nhất của tâm hồn. Và bởi vậy, thu cũng là một mùa xuân. Đầu xuân là bình minh ấm của lòng tôi, đầu thu là bình minh mát của lòng tôi. Và ấm hay mát, thu hay xuân, lòng tôi cũng rạo rực những tiếng gọi mùa, ái tình ghé môi gọi lời trong gió”.
Có thể thấy cảm nhận trên trong ba bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước Cách mạng: Thơ duyên, Đây mùa thu tới, Vội vàng. Ở đó ta gặp hai tâm trạng trái ngược nhau: rất yêu đời, rất tha thiết với cuộc sống, nhưng đồng thời lại rất chán nản, hoài nghi, cô đơn. Thực ra hai tâm trạng này có mối quan hệ nhân quả với nhau và gắn liền với nỗi ám ảnh về thời gian của nhà thơ. Với Xuân Diệu, Xuân và Thu mang lại cho cuộc sống bao cái đẹp kì diệu cho con người với bao niềm vui kì thú, nhưng cũng sẽ mang tới bao sự tàn phai, bao nỗi buồn chia li, xa cách.
Trước hết qua cảm nhận của Xuân Diệu, mùa thu đồng nghĩa với cái đẹp và đồng nghĩa với tình yêu. Mùa thu đến với những sắc màu vừa sáng trong, trẻ trung, vừa mơ màng, lãng mạn. Mùa thu đến mang lại niềm vui cho con người, cỏ cây, chim muông. Mùa thu đến cùng với phép màu kì diệu, tạo nên sự tương giao hòa hợp cho muôn loài:
“Đây mùa thu tới. Mùa thu tới
Với áo mơ phơi dệt lá vàng”.
(Đây mùa thu tới)
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim thuyền
Đổ trời xanh ngược qua muôn lá
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”.
(Thơ duyên)
Hơn nữa, mùa thu – thời gian đâu chỉ có những biến động của cảnh vật bên ngoài mà còn tạo ra những rung dộng tinh tế, sâu thẳm bên trong của đôi lứa yêu nhau. Đó là “duyên”, là quan hệ hòa hợp giữa người như sự hòa điệu âm thanh trong một bài thơ dịu nhẹ:
“Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần.
Vô tâm-nhưng giữa bài thơ dịu
Em với anh như một cặp vần”.
(Thơ duyên).
Nếu mùa Thu là “bình minh mát” thì mùa xuân là “bình minh ấm” của cõi lòng Xuân Diệu. Mùa xuân đến như một vị “Thần Vui” gõ cửa cuộc đời, gõ từng nhà, mang đến bao niềm vui tràn trề: “Mỗi sáng sớm Thần Vui hằng gõ cửa” (Vội vàng). Mùa xuân đến mở ra một thế giới thật xanh tươi, sinh động, rộn rã cho cõi trần thế này. Tất cả như một “bàn tiệc cảm giác” để cho nhà thơ thưởng thức: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì.
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi…”
(Vội vàng).
Thu đến mang bao ngỡ ngàng thích thú, Xuân đến lại mang tới bao niềm vui rộn rã. Thế nhưng qua cảm thức thời gian của Xuân Diệu, tất cả không tồn tại vĩnh cửu, tất cả vẻ đẹp của cuộc sống và con người rồi sẽ trôi qua trong chốc lát. Trong Thơ duyên, Xuân Diệu cho thấy những rung động tinh tế lãng mạn của cảnh vật, lòng người khi Thu đến; lại có cả những xao động, lo lắng về một hiện thực mùa Thu sẽ qua đi. Nỗi xao động, lo lắng ấy dấy lên ở lòng người và ở cả cảnh vật thiên nhiên:
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần
Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng băng nhân gợi tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy”
Cảm nhận ấy được biểu hiện rõ nét trong Đây mùa thu tới. Điệp khúc “Đây mùa thu tới – mùa thu tới!” không chỉ là tiếng reo vui báo mùa mà còn là giai điệu ngậm ngùi về sự hối thúc của thời gian. Mùa thu là thế giới của cái đẹp mà cũng thế giới của sự phôi pha, hao gầy và chia lìa. Sự phôi pha, hao gầy bắt đầu từ hình thể đến màu sắc: rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng. Màu xanh bị lấn dần bởi sắc đỏ úa. Cành cây hè mập mạp nay trơ xương mỏng manh. Dáng núi xa nhòe trong sương. Rồi sau đó là sự rơi rụng, chia lìa: hoa rụng cành, chim bay đi, trời hận chia li, đã vắng những chuyến đò ngang… Và cuối cùng là nỗi buồn bã ngẩn ngơ của người thiếu nữ:
“Ít nhiều thiếu nữa buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”.
(Đây mùa thu tới).
Như vậy, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu là tiếng gọi hối hả, thôi thúc của thời gian. Thời gian là dấu hiệu của sự tàn phai rơi rụng. Thời gian là sự trôi chảy một đi
không trở lại. Chính ý thức về thời gian một chiều chứ không phải tuần hoàn, cuộc đời hữu hạn chứ không phải vô hạn, đã tạo nên cái nhìn nghệ thuật của Xuân Diệu trong toàn bộ sáng tác của nhà thơ. Vì thế, ở bài thơ Vội vàng, sau những câu thơ rạo rực tươi vui, Xuân Diệu lại viết những lời thơ như buồn bã, giận hờn, lo sợ về sự trôi qua của thời gian mang theo bao nhiêu vẻ đẹp cuộc sống, chỉ còn để lại sự li biệt, chia lìa:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nữa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
Xuân đương tới nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân mất, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt…”
(Vội vàng).
Trong thơ Việt Nam, và cả trong phong trào Thơ Mới, chưa ai có giọng thơ nuối tiếc thời gian, thương tiếc cuộc sống đến thiết tha như Xuân Diệu. Cũng những nét ấy, sắc màu và âm thanh ấy, đoạn thơ trên [Của ong bướm này đây tuần tháng mật … Và này đây ánh sáng chớp hàng mi… ] náo nức rạo rực là thế, mà ở đoạn thơ này thì buồn thương, ngậm ngùi, xót xa biết bao.
Nỗi xót xa, tiếc nuối thời gian và sự sống khiến cho nhà thơ có một ước muốn thật táo bạo: “Tôi muốn tắt nắng đi. Cho màu đừng nhạt mất. Tôi muốn buộc gió lại. Cho hương đừng bay đi”. Thế nhưng, táo bạo mà không tưởng. Bởi qui luật thời gian và cuộc sống không thể nào cho phép nhà thơ thực hiện ước mơ ấy. Vì thế, Xuân Diệu kêu lên thất vọng trước thực tế phũ phàng: thời gian và tuổi trẻ không bao giờ trở lại: Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.
Đối với Xuân Diệu, cái vô hạn của thời gian lại trở thành hữu hạn, bởi điều quí nhất là cuộc sống và tuổi trẻ lại hữu hạn và không tuần hoàn. Song, một con người ham sống, yêu đời mãnh liệt như Xuân Diệu không thể nào chấp nhận được thực tế ấy. Nhà thơ làm thay đổi qui luật của thời gian theo cách riêng của mình. Làm thế nào biến cái hữu hạn của đời người thành vô hạn cùng với thời gian, với mùa xuân bất diệt của đất trời? Chỉ có một cách, ấy là biến “cái hữu hạn về lượng” thành “cái vô hạn về chất”; nghĩa là phải vội vàng, phải hối hả, phải đắm say, phải mãnh liệt để thu vào độ cao nhất những gì là đẹp đẽ, quí giá của cuộc sống và đời người. Phải sống Vội vàng.
Như vậy, qua cảm thức thời gian của Xuân Diệu, con người phải vượt lên chế ngự thời gian, làm chủ thời gian bằng sự vận động của chính mình, bằng thái độ sống mãnh liệt của mình. Thái độ đó, quan niệm đó được Xuân Diệu trình bày một cách rõ ràng trong văn xuôi “Thời gian chỉ là sự cử động. Nếu tôi đứng, máu tôi ngừng… thời gian của tôi sẽ không còn nữa” (Trường ca). Bởi vậy, để thời gian không mất đi, con người phải không ngừng vận động. Nhưng có điều quan trọng là phải vận động ngang với vận tốc của cuộc đời, ngang với nhịp điệu chuyển vần của vũ trụ. Vì thế, trong Thơ duyên, sau những câu thơ diễn tả bước đi của thời gian, Xuân Diệu kết thúc đột ngột bằng câu thơ biểu diễn sự tương giao hòa hợp của hai con người, đó cũng là khát vọng cháy bỏng của nhà thơ trong tình yêu.
“Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng băng nhăn gạ tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.”
Thái độ vượt lên chiến thắng thời gian được thể hện đậm nét trong nhiều bài thơ của Xuân Diệu. Thắng vượt thời gian bằng tốc độ sống nhanh gấp, vội vàng và cả cường độ sống mạnh mẽ, vồ vập với bao thèm khát. Thế giới thơ của Xuân Diệu đầy những từ ngữ chỉ sự hối thúc: giục giã, vội vàng, mau lên… bởi thi nhân e sợ “lỡ làng”, “muộn màng”, “không kịp”, “lỡ thì”:
“Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non sắp già rồi”.
‘Mau lên chứ! Thời gian không đứng đợi
Gấp đi em anh rất sợ ngày mai”
“Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn”
Với sự níu kéo thời gian, thắng vượt thời gian; Vội vàng của Xuân Diệu là một triết lí sống bằng tốc độ và cường độ. Đó là sự khát thèm sự sống với những biểu hiện: trân trọng bám víu lấy sự sống trong mọi hình thái đa dạng, biết sống với hiện tại và coi trọng hiện tại, phải biết nén tối đa sự sống vào một khoảnh khắc thời gian nhỏ nhất.
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng”
Đúng là những câu thơ giục giã. Cảm xúc của Xuân Diệu như một dòng nước suối ào ạt tuôn chảy, tưởng chừng ngôn từ xô đẩy nhau, chen lấn nhau để theo kịp nguồn cảm xúc ấy. Tưởng chừng Xuân Diệu muốn níu kéo thời gian tuổi trẻ – mùa xuân ngừng lại để mà hưởng thụ, muốn vượt lên để chiến thắng bước tiến của thời gian. Xuân Diệu nồng nhiệt hưởng thụ đến rối rít, đến cuống quýt, tưởng chừng có thể một lúc dang tay ra ôm cả vũ trụ, cả cuộc đời – mùa xuân vào lòng mình. Sống như thế, với Xuân Diệu, mới thực sự là sống. Sống như thế mới đi đến chỗ tận cùng của niềm hạnh phúc được sống.
“Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.”
Như vậy, qua ba bài thơ Thơ duyên, Đây mùa thu tới, Vội vàng, ta thấy thơ Xuân Diệu thật rạo rực, sôi nổi một khao khát sống mạnh mẽ, mãnh liệt. Đối với Xuân Diệu, “Sự sống chẳng bao giờ chán nản”. Từ đó, Xuân Diệu có một nhận thức về thời gian mang phong cách riêng, nét riêng của mình. Nhà thơ nhận thức về thời gian cũng là nhận thức cuộc đời ở dạng vận động, ở tiến trình không đứng yên của nó. Vì thế, nói như nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy: “Thơ Xuân Diệu là thế giới mở rộng đa thanh. Trong bản giao hưởng âm thanh này nổi lên những giai âm như Đây mùa thu tới: sự thức nhận thời gian; Vội vàng: một ứng xử với thời gian; Gửi hương cho gió: tình yêu như chiến thắng thời gian. Sau cùng, Thơ thơ: nghệ thuật là sự vĩnh cửu hóa thời gian.
Bài tham khảo:
Cảm nhận bài thơ “Vội vàng”
- Mở bài:
“Khó có thể nói được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam khi Xuân Diệu đến”. Hoài Thanh đã mở đầu trang viết về Xuân Diệu trong cuốn “thi nhân Việt Nam” bằng một giọng điệu nghẹn ngùng và ngạc nhiên như thế. Xuân Diệu đã bước vào thi đàn Việt Nam như một cơn gió đầu mùa tươi trẻ, tràn đầy sức sống của một con người mới, một thế hệ mới. Ông bước đi trong dòng chảy thơ ca Việt những năm 32-45 với một cái tôi hoàn toàn nổi bật. Có chăng cái tôi ấy đã đã làm nên một hồn thơ rất mới mẻ, rất độc đáo, rất Xuân Diệu, một lòng yêu đời và ham sống của tuổi trẻ mà “Vội Vàng” là một trích dẫn tiêu biểu nhất?lòng yêu đời và ham sống của tuổi trẻ trong thơ Xuân Diệu
- Thân bài:
Xuân Diệu đến muộn trong phong trào Thơ mới nhưng là gương mặt nổi bậc nhất. Phong cách sống và phong cách sáng tác của Xuân Diệu rất đáng để người đời học hỏi. Ông luôn cần cù kiên nhẫn trong học tập, rèn luyện và lao động sáng tạo nghệ thuật. Trong sự nghiệp sáng tác thơ của mình, Xuân Diệu được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, là nhà thơ mới nhất của phong trào Thơ mới giai đoạn 1930-1945 với tư tưởng tiến bộ chi phối toàn bộ sự nghiệp văn học của mình- niềm khát khao giao cảm với đời.
Vội vàng là được giới văn sĩ đánh giá là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng Tám, một hồn thơ bồng bột, khát khao giao cảm đến mãnh liệt, đến cuồng si. Bài thơ bộc lộ nét đẹp của một quan niệm nhân sinh mới : sống tự giác và tích cực, sống với niềm khao khát phát huy hết giá trị bản ngã, tận hiến cho cuộc đời và cũng là một cách tận hưởng cuộc đời.
Sống vội vàng chỉ là một cách nói. Trong cốt lõi, đây là một quan niệm sống mới mang ý nghĩa tích cực nhằm phát huy cao độ giá trị của cái Tôi cá nhân trong thời hiện đại. Quan niệm sống nói trên được diễn giải qua một hệ thống cảm xúc và suy nghĩ mang màu sắc “ biện luận” rất riêng của tác giả. Với Xuân Diệu, cuộc đời như một thiên đường trên mặt đất.
Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Thức nhận được sự trôi chảy vô biên của thời gian, nhà thơ như cảm thấy sợ hãi và khao khát níu giữ được nó để tận hưởng vẻ đẹp đích thực của cuộc sống. Thi sĩ muốn đoạt quyền tạo hoá, muốn đi ngược lại sự vận động của thiên nhiên, muốn tự mình nắm giữ điều chỉnh thời gian, bởi một người như Xuân Diệu sống để yêu và yêu để sống thì thời gian mà tự nhiên định sẵn từ ngàn xưa đến nay không thể nào đủ. Bằng việc sử dụng những động từ mạnh “tắt”, “buộc”, Xuân Diệu như muốn lưu giữ lại cái khoảnh khắc của tuổi xuân, muốn thời gian ngưng đọng lại, muốn và muốn như vậy mới có đủ thời gian để thỏa mãn lòng khao khát trong tâm hồn nhà thơ. Lần đầu tiên trong thơ ca hiện đại lại có một quan niệm về thời gian một cách ráo riết như Xuân Diệu.
Thiên đường cuộc sống của Xuân Diệu nơi trần gian thật mới mẻ!Trong quan niệm của người xưa, đời là chốn bụi trần, cuộc đời là bể khổ. Đấy là lý do vì sao lánh đời nhiều khi đã trở thành một cách thế sống mà cả tôn giáo cũng như văn chương đều chủ trương vẫy gọi con người trên hành trình đi tìm sự an lạc tâm hồn. Cũng chẳng phải ngẫu nhiên, đạo Phật tô đậm vẻ đẹp của cõi Tây Phương cực lạc; văn học cổ Trung Quốc cũng như văn học trung đại Việt Nam đều đề cao tâm lý hoài cổ, phục cổ, khuyến khích xu hướng tìm về với những giá trị trong quá khứ vàng son một đi không trở lại như đi tìm một thiên đường đã mất.
Xuân Diệu thuộc thế hệ những người trẻ tuổi ham sống và sống sôi nổi, họ không coi lánh đời là một xu thế mang ý nghĩa tích cực mà ngược lại, họ không ngần ngại lao vào đời. Và thật ngạc nhiên, nhờ tuổi trẻ, họ phát hiện ra cuộc đời thực chất không phải là một cõi mông lung, mờ mờ nhân ảnh, cũng chẳng phải là cái bể khổ đầy đoạ con người bằng sinh, lão, bệnh, tử … những định mệnh đã hàng ngàn năm ám ảnh con người mà trái lại, là cả một thế giới tinh khôi, quyến rũ. Tất cả đều hiện hữu, tất cả đều gần gũi, đầy ắp, ngay trong đời thực và trong tầm tay với:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống được tác giả cảm nhận bằng mọi giác quan, bằng cả tâm hồn của một thi sĩ. Trong cái nhìn mới mẻ, say sưa thi nhân vồn vã liệt kê bao vẻ đẹp của cuộc đời bằng hàng loạt đại từ chỉ trỏ này đây làm hiện lên cả một thế giới thật sống động. Hơn thế, cõi sống đầy quyến rũ ấy như đang vẫy gọi, chào mời bằng vẻ ngọt ngào, trẻ trung: đây là tuần tháng mật để dành cho ong bướm, đây là hoa của đồng nội (đang) “xanh rì, đây là lá của cành tơ phơ phất và khúc tình si kia là của những lứa đôi. Có lẽ trước Xuân Diệu trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn non tơ đầy một sức sống thanh tân kia mà sao quyến rũ – tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người tình rạo rực đắm say.
Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong Vội vàng vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy đắm say. Xuân Diệu hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.
Tuy nhiên, trong ý thức mới của con người thời đại về thời gian, khi khám phá ra cái đẹp đích thực kia của đời cũng là lúc người ta hiểu rằng điều tuyệt diệu này có số phận thật ngắn ngủi, mong manh và sẽ nhanh chóng tàn phai vì theo vòng quay của thời gian có cái gì trên đời là vĩnh viễn?
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Niềm ám ảnh về sự chảy trôi vô tình của thời gian khiến cái nhìn của thi nhân về thế giới bỗng đổi khác, tất cả đều nhuốm màu của âu lo, bàng hoàng, thảng thốt. Đấy là lý do vì sao mạch cảm xúc trong đoạn thơ bỗng liên tục thay đổi : từ việc xuất hiện các kiểu câu định nghĩa, tăng cấp : “nghĩa là (3lần/3dòng thơ), để định nghĩa về mùa xuân và tuổi trẻ, mà thực chất là để cảm nhận về hiện hữu và phôi pha, đến ý tưởng ràng buộc số phận cá nhân mình với số phận của mùa xuân, tuổi xuân nhằm thổ lộ niềm xót tiếc cái phần đẹp nhất của đời người, cuối cùng cất lên tiếng than đầy khổ não : Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất!
Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu kỳ bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu ngàn ngày của kiếp người. Con người hiện đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định “còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”.
Thi sĩ lại cảm nhận về không gian và thời gian đầy sự lạ hóa:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép “tương giao” của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: “Mùi tháng năm” – thời gian của Xuân Diệu được làm bằng mùi hương, bằng mùi vị. Niềm xót tiếc cứ thế tuôn chảy miên man trong hàng loạt câu thơ và khắc nghiệt với bất công đã trở thành một quan hệ định mệnh giữa tự nhiên với con người. Nỗi cay đắng trước sự thật đó được triển khai trong những hình ảnh và ý niệm sắp xếp theo tương quan đối lập giữa : lòng người rộng” mà lượng trời chật; Xuân của thiên nhiên thì tuần hoàn” mà tuổi trẻ của con người thì chẳng hai lần thắm lại. Cõi vô thuỷ vô chung là vũ trụ vẫn còn mãi vậy mà con người, sinh thể sống đầy xúc cảm và khao khát lại hoá thành hư vô. Điều “ bất công” này thôi thúc cái tôi cá nhân đi tìm sức mạnh hoá giải.
Từ nỗi ám ảnh về số phận mong manh chóng tàn lụi của tuổi xuân, tác giả đề ra một giải pháp táo bạo. Con người không thể chặn đứng được bước đi của thời gian, con người chỉ có thể phải chạy đua với nó bằng một nhịp sống mới mà nhà thơ gọi là vội vàng.
Mau đi thôi! Màu chưa ngã chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê hương sắc của thời tươi
-hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi
Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa và song song vỗ vào tâm hồn người đọc. Cái điệp ngữ “ta muốn” được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm – riết – say – thâu – cắn. Những chữ “và” hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của nhà thơ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lòng ngực yêu đời của thi sĩ !
Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu được Hoài Thanh nhận xét là “nhà thơ mới nhất của phong trào thơ Mới”. Ngoài những sự mới lạ trong nội dung đề tài, Xuân Diệu còn có những bước đi táo bạo trong việc cách tân nghệ thuật. Với “Vội Vàng”, bài thơ có sự kết hợp giữa hai yếu tố trữ tình , chính luận. Yếu tố trữ tình được bộc lộ ở những rung động mãnh liệt bên cạnh những ám ảnh kinh hoàng khi phát hiện vè số phận mong manh của cái đẹp, của tình yêu và tuổi trẻ trước sự hủy hoại của thời gian. Mạch chính luận là hệ thống lập luận, lí giải về lẽ sống vội vàng , thông điệp mà Xuân Diệu muốn gửi đến cho độc giả được trình bày theo lối quy nạp từ nghịch lí mâu thuẫn đến giải đáp. Bên cạnh đó, Xuân Diệu còn thành công trong việc tạo ra cú pháp mới của câu thơ, cách diễn đạt mới, hình ảnh và ngôn từ mới.
Có thể nói Xuân Diệu qua bài thơ này không chỉ “sống” hay “ham sống” mà là “say sống”. Sống mãnh liệt sống hối hả, sống gấp để tận hưởng vẻ đẹp của trần gian. Đó là một nhân sinh quan lành mạnh. tuy chưa phải là lối sống cao đẹp nhất, nhưng đó là một lối sống tích cực, sống trong ý thức phát huy hết giá trị của tuổi trẻ và cũng là của cái tôi. Bài thơ là nhịp đập gấp gáp trước thanh sắc trần gian một ngày xuân của một trái tim chưa bao giờ chán sống
- Kết bài:
Nhà thơ Thế Lữ trong lời tựa cho tập “Thơ Thơ” của Xuân Diệu đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Đã mấy mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng tấm lòng trần gian của ông thì vẫn còn lưu mãi với các thế hệ. Hẳn những ai yêu cuộc sống, yêu thơ Xuân Diệu chắc không khỏi những rung động trước những cảm xúc mãnh liệt của lòng yêu đời và ham sống của tác giả qua bài thơ “Vội vàng” gắn với những niềm khát khao giao cảm với trời đất, với con người trong mùa xuân diệu kì!
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi…
- Phân tích 13 câu đầu bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu
- Chứng minh: “Tràng giang đã tiếp nối mạch thi cảm truyền thống với sự cách tân đích thực“
- So sánh khát vọng tình yêu trong bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh và “Vội vàng” của Xuân Diệu
- Phân tích bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử làm sáng tỏ: “Thơ không cần nhiều từ ngữ…”