Vẻ đẹp hình ảnh hai cây phong Cảm nhận vẻ đẹp hình ảnh hai cây phong trong đoạn trích “Hai cây phong”
- Mở bài:
Truyện “Người thầy đầu tiên” của nhà văn Ai-ma-tốp đã đưa chúng ta về với làng nhỏ Ku-ku-rcu của nước cộng hoà Kư-rơ-gư-xtan thuộc Liên-Xô (cũ). Câu chuyện về người chiến sĩ Hồng quân, đoàn viên thanh niên cộng sản Đuy-sen – người thầy đầu tiên đà trồng hai cây phong nhỏ cùng cô bé An-tư-nai thuở trước. Để bốn chục năm sau, cô bé đà là một viện sĩ danh tiếng, còn hai cây phong đà trở thành một phần không thể thiếu trong ký ức làng quê của biết bao thế hệ dân làng Ku-ku-rêu. Hai cây phong là hình ảnh thân thuộc của quê hương đã được cảm nhận bằng tất cả rung động trong trẻo nhất của tuổi thơ.
- Thân bài:
Kỷ niệm gắn bó với quê hương được kể lại theo hai mạch dẫn lồng vào nhau: mạch dẫn chuyện trực tiếp của nhân vật “tôi” – một họa sĩ đà lớn lên từ chính mảnh đất này và mạch kỷ niệm của cả một thế hệ “chúng tôi”. Ký ức thật đậm nét của tuổi thơ đã khiến cho người họa sĩ – nhân vật “tôi” đã tái hiện lại thật đẹp và xúc động hình ảnh hai cây phong – biểu tượng của quê hương, một mảnh hồn làng sống động.
Bắt đầu của những ký ức về làng quê là lời dẫn chuyện đưa người đọc trở về một nơi nằm ven chăn núi, trên một cao nguyên rộng, có những khe nước ào ào từ nhiều ngách đả đổ xuống . Ku-ku-rcu đã hiện ra với tất cả vẻ hoang sơ của thiên nhiên với thung lùng, thảo nguyên, rừng núi hai cây phong không phải là món quà của tự nhiên nhưng đã từ rất lâu, những đứa trẻ đã biết chúng từ thuở bắt đầu biết mình.
Rất tự nhiên, hình ảnh hai cây phong đã trở thành của riêng làng Ku-ku-rêu: “chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hai đăng đặt trên núi”, trở thành mốc định hướng cho mọi người tìm đến. Riêng đối với nhân vật “tôi”, “mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, “tôi” đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc ấy. Anh đã dành tình cảm đặc biệt với hai cây phong như với những người bạn, nhìn bằng cặp mắt chan chứa tình cảm yêu thương, nên dù khó nhìn đến mấy, anh bảo dù ở đâu cũng nhận biết được chúng, lúc nào cũng nhìn rõ chúng. Hình ảnh cây phong sừng sững trên ngọn đồi đã trở thành một phần tâm hồn cửa anh, chi phối cả niềm vui, nỗi buồn của người họa sĩ.
Bằng tình yêu ấy, nhân vật “tôi” đã tạo nên một bức tranh thật sinh động, đẹp đẽ. Một bức tranh ngân nga cả những giai điệu “tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”. Đoạn văn miêu tả hình ảnh hai cây phong đẹp như một bài thơ về một loài cây “có tiếng nói riêng và hẵn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu ”.
Có lẽ chính tình yêu quê hương của người hoạ sĩ đã đem đến cảm giác choáng ngợp say sưa ấy: “Dù ta tới đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngủ thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau. Có khi tưởng chừng như một làn sóng thủy triều dâng lên vỗ vào bãi cát, có khi lại nghe như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm chuyển qua lá cành như một đốm lửa vô hình, có khi hai cây phong bỗng im bặt một thoáng, rồi khắp lá cành hà cất tiếng thà dùi một lượt như thương tiếc người nào”.
Ngay cả khi thời tiết thay đổi khắc nghiệt, hai cây phong ấy vẫn như một con người bền bỉ, kiên cường đối chọi với sức mạnh tàn phá của bão dông: “nghiêng ngả tấm thân dẻo dai vù reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực. Cảm nhận của tuổi thơ đã được người họa sĩ ấy trân trọng gìn giữ, ngay cả khi khám phá ra điều bí ẩn về hai cây phong bằng những giải thích chính xác khoa học thì “việc khám phá ra chân lí giản đơn ấy vẫn không làm tôi vơi mộng xưa, không lùm tôi bỏ mất cách cảm thụ của tuổi thơ mà tôi còn giữ đến tận ngày nay”. Bởi lẽ cây phong ấy đã gắn với cả một thời tươi đẹp: “Tuổi, trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mãnh vỡ của chiếc gương thần xanh…”
Hình ảnh thời ấu thơ đã tạo thành không gian cổ tích rất riêng, phải chăng chính từ tình yêu và sự gắn bó với hai cây phong, đã làm cậu bé năm xưa lớn lên trở thành họa sĩ với mong muốn vẽ lại linh hồn nồng thắm của làng quê?
Hai cây phong ấy còn là kỷ niệm chung của chúng tôi – bọn con trai tinh nghịch ở làng Ku-ku-rêu, những người bạn cùng trang lứa của người họa sĩ. Đó là tất cả những ngày tháng được vui chơi, chạy nhảy giữa núi đồi rộng lớn, trong bóng râm mát rượi vù tiếng lá xào xạc dịu hiền của hai cầy phong. Đẹp làm sao khoảnh khắc những cậu bé ấy được nâng lên cao từ những cành cao ngất, cao đến ngang tầm chim bay, một thế giới khác đã được mở ra, vượt ra khỏi giới hạn của làng quê Ku-ku-rêu nhỏ bé, “như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi củ một thể giới đẹp đẽ vô ngần của không gian hao la và ánh sáng”.
Hai cây phong trở thành bệ đỡ nâng cánh ước mơ cho những đứa trỏ, mở tầm nhận thức về một thế giới đầy những điều mới lạ cần khám phá, hướng về “những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ được giấu kín sau chân trời xa thâm biên biếc kia”. Cũng như bạn bò của mình, “tôi” – chú bé sau này là họa sĩ cũng trải qua cảm giác “tim đập rộn ràng vì thoảng thốt và vui sướng, rồi trong tiếng xào xạc không ngớt ấy, tôi cố hình dung ra những miền xa lạ kia”. Cây phong đã trở thành người bạn lớn, người bạn tâm tình thân thiết đem lại những niềm vui vỡ òa hạnh phúc cho tuổi thơ.
Bên cạnh bức tranh bằng ngôn từ là một bản giao hưởng của âm thanh với đủ cung bậc buồn vui. Người viết đã phát huy cao độ trí tưởng tượng bay bổng và cảm xúc say mê nồng nhiệt của mình vào việc thể hiện vẻ đẹp lạ thường của hai cây phong. Có khi chúng thì thầm thiết tha nồng nàn, có khi chúng bỗng im bặt một thoáng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào. Được nhân cách hóa cao độ nên hai cây phong có tiếng nói và tâm hồn đa dạng, phong phú, cuốn hút lòng người.
Khi hưởng thụ niềm vui trong bao tháng ngày hồn nhiên thơ mộng bên hai cây phong ấy, không cậu bé nào đặt câu hỏi về người đã vun mầm, ấp ủ những niềm hi vọng, đem lại hạnh phúc tuổi thơ. Đó cũng là điều bình thường với bất cứ em bé nào. Hai cây phong của người chiến sĩ Hồng quân, đoàn viên thanh niên cộng sản Đuy-sen đã cùng trồng với em bé khốn khổ An-tư-nai trong những ngày làng Ku- ku-rêu còn chìm đắm trong lạc hậu lôi tăm và những hủ tục còn đè nặng trong đời sống dân làng những năm đầu sau cách mạng tháng Mười đã trở thành nhân chứng cho sự lớn khôn của bao thế hệ.
Bản thân ngươi thầy đầu tiên ấy vẫn ở lại với làng, đã trở thành một ông lão đưa thư mẫn cán Đuy-sen. Thế nhưng, khi các em bé gọi quả đồi có hai cây phong là “Trường Đuy-sen” như bao dân làng. Có mấy ai còn nhớ ông lão ấy chính là thầy Đụy-sen, người đem đến ánh sáng cách mạng góp phần xoá tan đi bóng tối cho bao cuộc đời? Hai cây phong còn là minh chứng cho sự hy sinh lặng thầm của những người cộng sản trẻ tuổi đã không ngại ngần cống hiến thời thanh xuân tươi đẹp cho quê hương thay da đổi thịt.
- Kết bài:
Hai cây phong được miêu tả không chỉ bằng ngòi bút tinh tế mà còn bằng một trái tim yêu thiên nhiên, yêu quê hương sâu sắc. Tình yêu tha thiết dành cho hai cây phong tuôn chảy không ngừng dưới ngòi bút tinh tế của nhà văn đã mang lại cho hai cây phong đòi sống tâm hồn phong phú như con người. Đây là bức tranh được vẽ bằng thứ ngôn ngữ đầy tính tạo hình của hội họa và tính trữ tình của thơ, của nhạc. Tình cảm yêu mến hai cây phong của “tôi”, của “chúng tôi”, của những người dân làng Ku- ku-rêu khiến chúng ta trân trọng chính là vì hai cây phong ấy gắn với câu chuyện về một con người cao đẹp, người thầy giáo không có bằng sư phạm nhưng đã vun trồng bao ước mơ, hi vọng cho những trò nhỏ của mình.
- Cảm nhận ý nghĩa truyện “Chiếc lá cuối cùng” của nhà văn O.Henri
- Phân tích hai tình huống đảo ngược trong truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng” của O.Henri
- Truyện “Chiếc lá cuối cùng” của O.Hen-ri là bức thông điệp màu xanh về tình thương và sự sống của con người