»» Nội dung bài viết:
Dàn bài phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Mở bài:
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều. Bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông? được viết năm 1981. Tác phẩm là khám phá và ca ngợi không chỉ vẻ đẹp của một dòng sông mang cái tên giàu ý nghĩa, mà rộng hơn, giúp người đọc thêm yêu quý vẻ đẹp của quê hương đất nước. Sông Hương như một sinh thể có cuộc đời phong phú, trải qua nhiều gian truân, thăng trầm để cuối cùng bộc lộ vẻ đẹp đầy cá tính mà giàu chất thơ, vừa trí tuệ vừa dịu dàng, đặc biệt là phẩm chất sâu lắng, trầm tĩnh của một con sông có chiều sâu văn hoá.
- Thân bài:
Bút kí thường được xem là thể trung gian giữa kí sự và tùy bút, không có ranh giới rạch ròi giữa các loại kí (bút kí, kí sự, tùy bút) mà biến hóa tùy theo ý định sáng tác và đặc điểm, bút pháp của nhà văn. Nổi bật lên trong tác phẩm kí chính là chất chủ quan, chất trữ tình sâu đậm của cái tôi tác giả – chủ yếu là cái tôi uyên bác, độc đáo. Ngôn ngữ bút kí giàu hình ảnh và giàu chất thơ. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khai thác triệt để thế mạnh của bút kí trong việc khắc hoạ hình tượng dòng sông Hương.
Hình ảnh sông Hương dưới góc nhìn địa lý.
* Hình ảnh sông Hương từ thượng nguồn:
– Khi qua dãy Trường Sơn hùng vĩ:
+ Sông Hương là bản tình ca của rừng già ….
+ Sông Hương như một cô gái Di-gan phóng khoáng man dại…
→ Vẻ đẹp của một sức sống trẻ trung, mãnh liệt và hoang dại.
– Khi ra khỏi rừng già:
+ Đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng…
+ Mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa …
→ Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông.
* Hình ảnh sông Hương khi về tới châu thổ:
– Sông Hương trên đường tìm đến Huế:
+ Chuyển dòng một cách liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức.
+ Vẻ đẹp của dòng sông trở nên biến ảo, đa dạng trong nhiều thời gian và không gian khác nhau (dẫn chứng…). Vẻ đẹp của Huế như trở thành vẻ đẹp của sông Hương.
→ Sông Hương qua cái nhìn đầy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường như một cô gái dịu dàng mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu của nó.
– Sông Hương gặp gỡ Huế:
+ Uốn một cánh cung rất nhẹ… → Vẻ e lệ, ngượng ngùng khi gặp người trong mong đợi, sự thuận tình mà không nói ra.
+ Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng. Sông Hương và Huế hòa lẫn vào nhau.
+ Sông Hương giảm hẳn lưu tốc, xuôi đi thực chậm (điệu slow)… thực yên tĩnh như niềm say mê, như khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây.
→ Được nhìn từ góc độ tâm trạng, nên cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương như cuộc hội ngộ của tình yêu với nhiều cung bậc cảm xúc.
– Sông Hương tạm biệt Huế để ra đi:
+ Rời khỏi kinh thành, sông Hương ôm lấy đảo Cồn Huế, lưu luyến ra đi…
+ Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu một lần cuối.
→ Quyến luyến, ngập ngừng, bịn rịn không nỡ rời xa.
Vẻ đẹp của dòng sông Hương dưới góc nhìn văn hóa, lịch sử.
* Dòng sông âm nhạc:
+ Là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
+ Là nơi sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc có điểm của Huế.
+ Là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của nàng Kiều.
* Dòng sông thi ca:
+ Là vẻ đẹp mơ màng Dòng sông trắng lá cây xanh trong thơ Tản Đà.
+ Vẻ đẹp hùng tráng như kiếm dựng trời xanh của Cao Bá Quát.
+ Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan.
+ Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu.
→ Sông Hương luôn đem đến nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các nghệ sĩ.
* Dòng sông gắn với những phong tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế:
+ Màn sương khói trên sông Hương là màu áo điền lục, một sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng.
+ Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như một nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người xứ Huế: rất dịu dàng và rất trầm tư…
* Sông Hương với lịch sử – là một dòng sông anh hùng:
+ Từ xa xưa: là một dòng song biên thùy xa xôi của đất nước.
+ Thời trung đại:bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc.
+ Thời chống Pháp: sống hết lịch sử bi tráng với các cuộc khởi nghĩa.
+ Đi vào thời đại cách mạng tháng 8 với những chiến công rung chuyển.
+ Thời chống Mĩ…
Chất trí tuệ và chất thơ của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
* Chất trí tuệ, tài hoa, uyên bác:
– Hoàng Phủ Ngọc Tường vận dụng những am hiểu trong ca dao Huế vào bút kí của mình: “Bốn bề núi phủ mây phong / Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên” cho đến câu thơ của Tản Đà “Dòng sông trắng – lá cây xanh”, thơ của Tố Hữu, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Truyện Kiều.
– Những hiểu biết về phương diện địa lí để miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ thượng nguồn, đến đồng bằng, cho đến cố đô Huế.
– Những hiểu biết về lịch sử văn hoá.
– Sự liên tưởng so sánh với các công trình kiến trúc của Hi Lạp, La Mã, nền văn minh Châu Âu.
– Những tác phẩm văn học Châu Âu, những lời nhận xét của các nhà khoa học nước ngoài.
* Chất thơ mềm mại, đắm say:
– Cách ví von, so sánh đầy chất thơ, mượt mà, ý vị: “Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Và “giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cách cung rất nhẹ sang đến Cồn Hiến, đường cong ấy làm cho dòng sông mền hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”. Hay “Sông Hương là vậy, là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Những câu văn có sự mài dũa, đẽo gọt kĩ càng, nhẹ nhàng như một câu thơ.
- Kết bài:
– Bài kí lột tả được vẻ đẹp đa dạng, phong phú của sông Hương, cũng là của xứ Huế, con người Huế, thể hiện tình yêu thiết tha, say đắm của tác giả đối với cảnh và người nơi đây.
– Phong cách viết kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Phóng túng, tài hoa, giàu thông tin văn hoá, địa lí, lịch sử ; giàu chất trữ tình lãng mạn.
Dàn bài chi tiết phân tích bút ký AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ? của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
- Mở bài:
– Hoàng Phủ Ngọc Tường (1937) là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lý… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
– Tác phẩm được viết tại Huế vào ngày 4 tháng 1 năm 1981, sau đó được in trong tập sách cùng tên. Bài bút ký trên có ba phần, đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc phần đầu tiên.
- Thân bài:
– Vẻ đẹp dòng sông được phát hiện rất đa dạng. Có lúc trữ tình êm ả, hiền hòa như “một thiếu nữ dịu dàng, duyên dáng”; có lúc phóng khoáng và man dại, rầm rộ và mãnh liệt như một “bản trường ca của rừng già”. Có khi dịu dàng và trí tuệ như “người mẹ phù sa”; có khi biến ảo “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”; hoặc khi thì vui tươi, khi thì như một mặt hồ yên tĩnh v.v… Dòng sông này cũng đã sống những thế kỷ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của mình. Đó còn là dòng sông của thời gian, của sử thi. Tất cả được miêu tả bằng một tình cảm thiết tha với Huế, với một vốn văn hóa phong phú và một vốn ngôn từ giàu có và đậm chất thơ của tác giả.
1. Ý nghĩa nhan đề.
– Bài kí mở đầu và kết luận bằng một câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
– Mang nghĩa hỏi: Chính nội dung bài kí là câu trả lời, một câu trả lời dài như một bài kí ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông có cái tên cũng rất đẹp và phù hợp với nó: Sông Hương.
– Mang tính chất biểu cảm:
+ Là cái cớ để nhà văn đi vào miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông Hương gắn với mảnh đất cố đô cổ kính tươi đẹp.
+ Thể hiện tình cảm ngỡ ngàng ngưỡng mộ thái độ trân trọng ngợi ca của tác giả với dòng sông Hương, thành phố Huế thân yêu. Vì quá yêu mà bật thành câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông!”
2. Vẻ đẹp của dòng Sông Hương.
a. Vẻ đẹp của Sông Hương được phát hiện từ cảnh sắc thiên nhiên.
* Sông Hương từ Thượng nguồn:
– Khi qua dãy Trường Sơn hùng vĩ:
+ Sông Hương là bản tình ca của rừng già. “Rầm rộ và mãnh liệt”,… “Dịu dàng và say đắm”….
→ Sự hợp âm của những nốt bổng, nốt trầm để mãi ngân nga vang vọng giữa đại ngàn của Trường Sơn.
+ Sông Hương như một cô gái Di-gan phóng khoáng man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản tính gan dạ, một tâm hồn tự do, phóng khoáng. Cũng chính rừng già nơi đây đã chế ngự sức mạnh bản năng của người con gái Sông Hương.
→ Vẻ đẹp của một sức sống trẻ trung, mãnh liệt và hoang dại.
– Khi ra khỏi rừng già:
+ “Đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng”…
+ Mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở.
→ Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông.
→ Bằng óc quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, bằng việc sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hoá tài hoa, táo bạo, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện và khắc hoạ vẻ đẹp mạnh mẽ, trẻ trung đầy cá tính của dòng sông, gợi lên ở người đọc những liên tưởng kì thú gợi cảm xác đáng đầy sức hấp dẫn.
* Sông Hương khi về Châu thổ:
– Sông Hương trước khi vào đến Huế:
+ Chuyển dòng một cách liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm:
- Từ ngã ba Tuần → Chảy theo hướng Nam – Bắc qua Hòn Chén.
- Chuyển hướng sang Tây – Bắc vòng qua Nguyệt Biển, Lương Quán.
- Đột ngột rẽ một hình cung thật tròn về phía đồng bằng ôm lấy chân đồi Thiên Mục, xuôi dần về Huế.
→ Hành trình của sông Hương như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi gặp thành phố tương lai của nó.
+ Vẻ đẹp của dòng sông trở nên biến ảo vô cùng:
- Qua Tam Thai, Vọng Cảnh: “Dòng sông mềm như tấm lụa…”; “Dòng sông như một tấm gương phản chiếu màu sắc…”
- Đến vùng rừng thông u tịch, lăng tẩm của vua chúa triều Nguyễn: DS mang vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc như triết lí, như cổ thi.
- Tới ngoại ô Kim Long: vẻ đẹp tươi vui….
→ Sông Hương qua cái nhìn đầy lãng mạn của Hoàng Phủ Ngọc Tường như một cô gái dịu dàng mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu theo tiếng gọi vang vọng từ trái tim. Với nghệ thuật so sánh cân đối, hài hoà đậm chất thơ, với sự phong phú về ngôn ngữ hình tượng, nhà văn đã khắc hoạ được vẻ đẹp dòng sông huyền ảo, lung linh sắc màu, người đọc đặc biệt ấn tượng về vẻ đẹp trầm mặc, cổ kính của Sông Hương gắn với thành quán lăng tẩm của vua chúa thủa trước.
– Cuộc gặp gỡ giữa Sông Hương và thành phố Huế.
+ Cầu Tràng Tiền như vành trăng non in gần trên nền trời → Một trong những biểu tượng của Huế như mơ màng chờ đợi, như vẫy gọi dòng sông.
+ Những lâu đài của đất cố đô soi bóng xuống dòng sông xanh biếc.
+ Uốn một cánh cung rất nhẹ như một tiếng vang vọng nói ra của tác giả → Vẻ e thẹn, ngượng ngùng khi gặp người trong mong đợi, sự thuận tình mà không nói ra.
+ Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như muốn ôm trọn Huế vào lòng.
+ Sông Hương và Huế hoà vào làm một, sông Hương làm nên vẻ mộng mơ của Huế, Huế làm nên vẻ đẹp trầm tư sâu lắng của Sông Hương.
+ Sông Hương giảm hắn lưu tốc, xuôi đi thực chậm… yên tĩnh, khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây.
→ Cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương được tác giả cảm nhận như cuộc hội ngộ của tình yêu. Sông Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường khám phá, phát hiện từ góc độ tâm trạng: Sông Hương gặp thành phố như đến với điểm hẹn của tình yêu sau 1 hành trình dài trở nên vui tươi và mềm mại. Sông Hương qua NT so sánh đầy mới lạ, bất ngờ trở nên có linh hồn, sự sống như 1 cô gái si tình đang say đắm trong tình yêu.
– Sông Hương khi tạm biệt Huế để ra đi:
+ Rời khỏi kinh thành, Sông Hương ôm lấy đảo Cồn Huế, lưu luyến ra đi…
+ Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu 1 lần cuối.
+ Quanh năm mơ màng trong sương khói và biên biếc màu xanh của tre trúc, vườn cau.
+ Thị trấn bao quanh là nơi Huế dõi theo 10 dặm trường đình.
→ Sự lưu luyến, bịn rịn của đôi tình nhân trong chia biệt. Gợi liên tưởng đến mối tình Kim Trọng – Thuý Kiều. Sông Hương giống như nàng Kiều trong đêm tình tự với chàng Kim với nỗi vấn vương, lẳng lơ, kín đáo của tình yêu, như tấm lòng chung tình của người dân nơi Châu Hoá với quê hương xứ sở.
b. Vẻ đẹp của dòng sông Hương từ góc nhìn văn hóa.
– Dòng sông âm nhạc:
+ Là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
+ Là nơi sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc có điểm của Huế.
+ Là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của nàng Kiều.
– Dòng sông thi ca:
+ Một dòng sông thơ ca lặp lại mình.
+ Là vẻ đẹp mơ màng “Dòng sông trắng lá cây xanh” trong thơ Tản Đà.
+ Vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” của Cao Bá Quát.
+ Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan.
+ Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu
→ Sông Hương luôn đem đến nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các thi nhân.
– Dòng sông gắn với những phong tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế.
+ Màn sương khói trên Sông Hương như màu áo điền lục, một sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng.
+ Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như một nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người xứ Huế: “rất dịu dàng và rất trầm tư…”
c. Dòng sông Hương với lịch sử hào hùng của mảnh đất Cố đô.
* Là một dòng sông anh hùng.
– Từ xa xưa: là một sông Hương biên thuỳ xa xôi của đất nước của các vua Hùng.
– Thời trung đại:
+ Dòng Linh Giang đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía nam tổ quốc Đại Việt.
+ Vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ.
– Thời chống Pháp:
+ Sống hết lịch sử bi tráng với máu của các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương.
+ Đi vào thời đại CMT8 với những chiến công rung chuyển.
– Thời chống Mĩ: Góp mình vào chiến dịch Mùa xuân 1968 Mậu Thân.
* Sông Hương cùng với thành phố Huế cũng chịu nhiều đau thương mất mát.
– Sông Hương là dòng sông có bề dày lịch sử như một người con gái anh hùng, khi tổ quốc gọi nó tự biết hiến đời mình làm một chiến công. Sông Hương là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc.
→ Sử thi mà trữ tình, bản hùng ca mà cũng là bản tình ca dịu dàng tươi mát. Đó là nét độc đáo của xứ Huế, của Sông Hương được tác giả khám phá và khắc hoạ từ góc độ lịch sử.
3. Hình tượng cái tôi của tác giả.
– Tình yêu thiết tha đến say đắm của tác giả đối với cảnh và người nơi xứ Huế.
– Phong cách viết kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Phóng túng, tài hoa, giàu thông tin văn hoá, địa lí, lịch sử và giàu chất trữ tình lãng mạn.
– Cảm nhận và hiểu được vẻ đẹp của Huế, của tâm hồn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương → Hoàng Phủ Ngọc Tường xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điểm sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
– Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước.
4. Nghệ thuật biểu hiện:
– Sức liên tưởng kì diệu, sự hiểu biết phong phú về kiến thức địa lý, lịch sử, văn hoá nghệ thuật và những trải nghiệm của bản thân. Có sự kết hợp hài hoà cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan.
– Ngôn ngữ trong sáng, phong phú, uyển chuyển, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng nhiều phép tu từ như: So sánh, nhân hoá, ẩn dụ,…
– Văn phong hướng nội, súc tích, tinh tế và tài hoan. Hình ảnh giàu sức liên tưởng, ngôn ngữ phong phú, giàu chất thơ. Đọan trích là đoạn văn xuôi súc tích và đày chất thơ về sông Hương. Nét đắc sắc làm nên sức hấp dẫn của đoạn văn là những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp từ một vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lí và một trí tưởng tượng sáng tạo độc đáo.
- Kết bài:
– Bài kí thể hiện những phát hiện, khám phá sâu sắc và độc đáo về sông Hương, góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương, đất nước. Bộc lộ tình yêu tha thiết, sâu lắng và niềm tự hào lớn lao của nhà văn đối với dòng sông quê hương, với xứ Huế thân thương. Hoàng Phủ Ngọc Tường xứng đáng là “một thi sĩ của thiên nhiên” (Lê Thị Hướng). Với những trang viết mê đắm, tài hoa, súc tích, tác giả đã thực sự làm giàu thêm cho linh hồn bức tranh thiên nhiên xứ sở.
* Tham khảo:
Phân tích chi tiết bút kí AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ? của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên về thể loại bút kí. Dù đã xuất bản một vài tập thơ nhưng có thể nói toàn bộ tinh hoa và năng lực của nhà văn đều dồn tụ hết cho thể kí. Chẳng phải ngẫu nhiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường được đánh giá là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, với những liên tưởng mạnh mẽ, độc đáo và một lối hành văn mê đắm, tài hoa.
Ai đã đặt tên cho dòng sông? được rút ra từ tập bút kí cùng tên, xuất bản năm 1984. Đoạn trích trong SGK là phần thứ nhất, phần này “nghiêng hẳn về chất thơ thi vị, ngọt ngào” (Trần Đình Sử).
Từ lâu, xứ Huế nói chung và dòng sông Hương nói riêng đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của các nghệ sĩ. Huế không chỉ là một vùng văn hoá đặc sắc mà còn là xứ sở của thơ ca, nhạc, hoạ. Đến Huế, ta vừa được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một vùng thiên nhiên tuyệt mỹ mà tạo hoá đã dày công tạo dựng, vừa được đắm mình trong không khí trầm mặc mang dấu ấn lịch sử của những lăng tẩm, đền đài. Cũng như bao tâm hồn nghệ sĩ khác, Hoàng Phủ Ngọc Tường bị mê hoặc bởi sức hấp dẫn lạ kì của Huế, đặc biệt là dòng Hương giang. Bằng tình yêu và sự hiểu biết sâu sắc về văn hoá, địa lí, lịch sử của con sông thơ mộng này, nhà văn đã sáng tạo thành công một hình tượng đẹp, một bức “điêu khắc bằng ngôn từ” có tên : sông Hương. Tác phẩm hấp dẫn người đọc ngay từ cái tên gọi đầu tiên : “Ai đã đặt tên cho dòng sông ?”
1. Hình tượng dòng sông Hương.
* Sông Hương ở thượng nguồn hùng vĩ như một “bản trường ca của rừng già”.
Thủy trình của Hương giang bắt đầu từ thượng lưu – nơi mà sông Hương, trong cảm nhận của nhà văn, giống như “bản trường ca của rừng già”. Thật vậy, ở nơi khởi nguồn của dòng chảy, gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, con sông mang vẻ đẹp mạnh mẽ với sức mạnh nguyên sơ bản năng : “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Những động từ mạnh, những cấu trúc giống nhau được điệp lại liên tiếp đã khiến cho con sông hiển hiện như một khúc ca dài bất tận của thiên nhiên. Nhưng trường ca đâu chỉ có sức mạnh mà trong bản chất của mình nó còn mang chứa yếu tố trữ tình bay bổng. Quả đúng thế, con sông Hương, sau những “rầm rộ”, “cuộn xoáy”, đã trở nên “dịu dàng”, đằm thắm có thể làm “say đắm” bất cứ chàng trai nào khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó“giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
* Sông Hương ở thượng nguồn mạnh mẽ như một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”.
Không phải là trường ca của “những người đi tới biển”, cũng không giống trường ca “mặt đường khát vọng” của tuổi trẻ đô thị miền Nam những đánh Mỹ, sông Hương là bản “trường ca của rừng già”. Vẻ nguyên sơ, hoang dã, thâm nghiêm của rừng già đã đem đến cho nó một vẻ đẹp mà trong suy cảm của nhà văn giống như một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Những cô gái Bô-hê-miêng từ lâu vẫn được biết đến là những người thích sống lang thang, tự do và yêu ca hát. Đó là những thiếu nữ có vẻ đẹp man dại đầy quyến rũ. Ví sông Hương với những cô gái Di-gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất thiếu nữ, rất tình tứ của con sông. Đó là vẻ đẹp tự nhiên, vẻ đẹp của “một tâm hồn tự do và trong sáng”.
* Sông Hương bao dung như “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
Không chỉ giúp cho bạn đọc có thêm một góc nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp hùng vĩ, man dại nhưng cũng đầy chất thơ của sông Hương, nhà văn còn muốn đem đến một cái nhìn sâu hơn, muốn “ghi công” sông Hương như một “đấng sáng tạo” đã góp phần tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng thiên nhiên xứ sở. Lâu nay, ta mới chỉ nhìn sông Hương ở vẻ đẹp bên ngoài của nó mà hầu như không biết rằng con sông còn là một khởi nguồn, một sự bắt đầu của một không gian văn hóa – văn hóa Huế.
Sẽ là không quá nếu ai đó cho rằng: không có sông Hương thì khó có thể có văn hóa Huế ngày nay. Bởi từng ngày từng giờ, sông Hương vươn mình chảy ra cửa Thuận thì cũng từng ngày từng giờ dòng sông đem đến, duy trì và bồi đắp “phù sa” cho cả một vùng văn hóa đã được hình thành ở trên và hai bên bờ sông. Ấy thế nhưng, “dòng sông hình như không muốn bộc lộ” cái công lao to lớn ấy. Nó đã âm thầm chảy và đã lặng lẽ cống hiến cho Huế nhiều thế kỉ qua. Đây chính là chiều sâu vẻ đẹp và “nhân cách” của dòng sông, là nét “tính cách” đáng trân trọng của Hương giang mà Hoàng Phủ Ngọc Tường muốn khắc họa.
* Sông Hương khi về tới đồng bằng châu thổ.
Lúc ở ngoại vi thành phố Huế:
Sau cái khởi nguồn ở vùng thượng lưu, sông Hương tiếp tục hành trình cam go, vất vả của mình để đến với Huế. Trước khi chảy vào lòng thành phố thân thương, nó cũng đã kịp để lại những dấu ấn riêng của mình. Sông Hương giống như người gái đẹp của cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại.
Vẻ đẹp của sông Hương trước khi vào thành phố Huế là cái đẹp mềm mại của một người con gái đang phô khoe những đường cong tuyệt mĩ. Bằng nghệ thuật so sánh, nhà văn đã ví sông Hương như “người gái đẹp đang ngủ mơ màng thì được người bạn tình mong đợi đến đánh thức”. Với lối so sánh ấy, dòng chảy uốn lượn của con sông, những khúc quanh của nó hiện lên như những đường cong trên cơ thể của một người thiếu nữ đương thì xuân sắc: “Sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Về mặt địa lý, hành trình đến với “người tình mong đợi” của “người gái đẹp” này khá gian truân và nhiều thử thách khi nó phải vượt qua Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều, Lương Quán. Nhưng chính trong quá trình ấy, con sông lại như có cơ hội phô khoe tất cả vẻ đẹp của mình – vẻ đẹp gợi cảm của người thiếu nữ đi ra từ “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” : “qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”.
Có thể thấy, bằng một lối hành văn uyển chuyển, ngôn ngữ đa dạng và giàu hình ảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã diễn tả một cách sinh động và hấp dẫn những khúc quanh, ngã rẽ của con sông. Mỗi đường đi nước bước của sông Hương gắn liền với những địa danh khác nhau của xứ Huế được nhà văn dành cho một cách diễn đạt riêng. Nhờ đó mà hành trình về xuôi của dòng sông không đơn điệu, nhàm chán mà trái lại nó luôn luôn biến hóa khiến người đọc đi từ ngạc nhiên, thú vị này đến bất ngờ, khoái cảm khác. Có những câu văn giàu chất họa đến mức cứ ngỡ như đường cọ của người họa sĩ đang đưa những nét vẽ về sông Hương trên bức tranh thiên nhiên xứ Huế (“vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán… vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc”). Lại có câu văn gợi một nét mơ hồ với nhiều liên tưởng và cảm xúc rất thích: “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”.
Thủ pháp nhân hóa và so sánh được sử dụng kết hợp với hệ thống ngôn từ giàu cảm xúc và hình ảnh cũng góp phần đáng kể vào việc khắc họa một dòng sông thơ mộng, trữ tình. Nó khiến cho cảm nhận về con sông như người con gái đẹp càng trở nên rõ nét và gợi cảm : sông Hương “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ” trước khi “xuôi dần về Huế”; sông Hương như con người biết tự làm mới mình, trang điểm cho mình đẹp hơn trước khi gặp người tình mà nó mong đợi : “vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm”; sông Hương như “tấm lụa” mềm mại trên cơ thể người thiếu nữ…
Tóm lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã “vẽ” lên bằng chất liệu ngôn từ cái dáng điệu yêu kiều và rất tạo hình của sông Hương khi nó ở ngoại vi thành phố Huế. Nhà văn không chỉ tái hiện lại một cách chân thực dòng chảy địa lý tự nhiên của con sông mà quan trọng hơn biến cái thủy trình ấy thành “hành trình đi tìm người yêu” của một người con gái đẹp, duyên dáng và tình tứ. Đây cũng chính là cảm nhận riêng, độc đáo và rất đặc sắc của nhà văn về sông Hương trước khi nó chảy vào lòng thành phố thân yêu.
* Khi vào thành phố, sông Hương mang vẻ đẹp “trầm mặc”, “như triết lí, như cổ thi”. Đi giữa thiên nhiên, sông Hương cũng chuyển mình ngày đêm bên những lăng tẩm, thành quách của vua chúa thời Nguyễn. Con sông hiền hòa ở ngoại vi thành phố Huế, đến đây, như đang nép mình bên “giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch“. Chảy bên những di sản văn hóa ấy, con sông như bổng trở nên nghiêm trang hơn, nó như khoác lên mình tấm áo “trầm mặc” mang cái “triết lí cổ thi” của cổ nhân. Dòng sông hay chính là dòng chảy của lịch sử vẫn bền bỉ chảy qua năm tháng và đang vọng về trong ngày hôm nay.
Trên hành trình của một con sông mềm mại như lụa, nhà văn đã “hướng ống kính máy quay” ra không gian xung quanh hai bên bờ sông. Hình ảnh thu được là không gian văn hóa Huế thể hiện ở cảnh sắc thiên nhiên và những lăng tẩm đền đài của vua chúa thời Nguyễn: “Sông Hương trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách… Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời Tây Nam thành phố : sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Vậy là, sông Hương đi trong vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên Huế và chính nó lại là tấm gương phản chiếu nét đẹp của cảnh quan đất trời hai bên bờ sông. Không có sông Hương, những ngọn đồi ở ngoại vi Huế vẫn có vẻ đẹp riêng nhưng vẻ đẹp ấy sẽ mất đi cái long lanh, cái đa sắc màu và không còn những “điểm cao đột khởi” xuất hiện như một điểm nhìn văn hoá, thưởng thức. Sông Hương chính là “trung tâm cảnh”, là linh hồn của thiên nhiên cảnh vật.
* Sông Hương khi chảy đến giữa lòng thành phố Huế.
Cuối cùng, sông Hương cũng đến nơi mà nó cần đến, cũng gặp được “thành phố tương lai” mà nó mong đợi : thành phố Huế. Có lẽ vì thế mà con sông “tươi vui hẳn lên“. Như đã tìm đúng đường đi, sông Hương cập bến thành phố thân yêu giữa những “thuyền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long” để rồi “giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên”. Đến đây, con sông giống như một cô gái đẹp e lệ, dịu dàng nghiêng mình “chào” Huế : “…sông Hương đã uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến cồn Hến”, “như một tiếng vang không nói ra của tình yêu”. Giống như sông Xen ở Pari, sông Đa- nuýp ở Bu- đa- pét, “sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình”.
Sông Hương êm đềm như “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Miêu tả dòng sông giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã chọn kênh tiếp cận là âm nhạc. Ở góc độ này, sông Hương chính là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Trong tiếng Anh, “slow” nghĩa là chậm và sông Hương như một giai điệu trữ tình chậm rãi chỉ dành riêng cho Huế mà thôi. Có thể thấy, nhà văn đã tinh tế khi nhìn ra một đặc trưng của Hương giang. So với các dòng sông khác ở Việt Nam và thế giới, lưu tốc của sông Hương không nhanh. Điều này đã được nhà văn lý giải từ đặc điểm địa lý : “những chi lưu ấy cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực chậm cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh“. Để làm nổi bật hơn cái đặc trưng này, nhà văn đã liên tưởng, so sánh sông Hương với sông Nêva – con sông chảy băng băng lướt qua trước cung điện Pêtécbua cũ để ra bể Ban-tích. Lưu tốc của con sông này nhanh đến mức “không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo“.
Tuy nhiên, tất cả sự lý giải và so sánh nêu trên chưa lột tả được hết ý nghĩa của cái mệnh đề mà nhà văn đã khái quát về sông Hương khi nó chảy giữa lòng thành phố : “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Mượn câu nói của Hêraclít – nhà triết học Hi Lạp, trong một cách nói thật hình ảnh “khóc suốt đời vì những dòng sông trôi quá nhanh“, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem đến một kiến giải khác, hết sức thú vị và độc đáo về lưu tốc của dòng sông mà ông yêu quý. Đó là cách lý giải từ “trái tim” : sông Hương chảy chậm, điệu chảy lững lờ là vì nó quá yêu thành phố của mình, nó muốn được nhìn ngắm nhiều hơn nữa thành phố thân thương trước khi phải dời xa. Đó là tình cảm của sông Hương với Huế hay chính là tình cảm của nhà văn với sông Hương, với xứ Huế mộng mơ ? Có lẽ là cả hai !
Sông Hương như “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Viết về sông Hương giữa lòng thành phố, Hoàng Phủ Ngọc Tường không quên một nét đẹp văn hoá đặc trưng gắn liền với dòng sông thơ mộng này. Đó là những đêm trình diễn âm nhạc cổ điển Huế trên dòng sông Hương. Ở góc nhìn âm nhạc này, tác giả gọi sông Hương là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Ai đã từng có dịp đến Huế thưởng thức nền âm nhạc Huế, được xem các nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc trên sông vào những đêm khuya mới thấy hết vẻ đẹp của âm nhạc và màu sắc văn hoá đặc trưng ở nơi đây. Toàn bộ nền âm nhạc ấy, trong cảm nhận của tác giả, chỉ thực sự là chính nó khi “sinh thành trên mặt nước” của Hương Giang “trong một khoang thuyền nào đó, giữa những tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya“. Ở đây có cái thú vị, cái sắc điệu riêng trong cách trình diễn âm nhạc của người Huế nhưng cũng có quy luật của nghệ thuật biểu diễn trên không gian sông nước. Trong Tì Bà hành, Bạch Cư Dị đã từng viết :
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông
Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả tiếng đàn của Thúy Kiều :
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như tiếng suối mới sa nửa vời
Dẫn ra câu chuyện về một người nghệ nhân già chơi đàn hết nửa thế kỉ khi nghe người con gái đọc câu thơ trên nhổm dậy vỗ đùi chỉ vào trang sách của Nguyễn Du mà thốt lên: “Tứ đại cảnh” (một điệu nhạc Huế), Hoàng Phủ Ngọc Tường đã một lần nữa khẳng định mối quan hệ gắn bó không thể tách rời giữa sông Hương và nền âm nhạc cổ điển Huế. Đây chính là văn hoá Huế nói chung và vẻ đẹp của Sông Hương nói riêng, vẻ đẹp hiếm thấy ở bất kì một dòng sông nào ở trong nước cũng như trên thế giới.
* Khi rời khỏi thành phố Huế, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thủy.
Khi dời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc. Tuy nhiên, do đặc điểm địa lý ở đất nước ta (hầu hết mọi dòng sông đều chảy về hướng đông để đổ ra biển) nên thủy trình của con sông đã phải thay đổi. Nó phải chuyển dòng sang hướng đông và như vậy sẽ lại đi qua một góc của thành phố Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đó là đặc điểm địa lý tự nhiên của dòng sông. Nhưng trong con mắt của người nghệ sĩ tài hoa, khúc ngoặt ấy lại là biểu hiện của nỗi “vương vấn”, thậm chí có chút “lẳng lơ kín đáo” của người tình thủy chung và chí tình. Nhà văn tưởng tượng, hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa. Đây đúng là một phát hiện, một liên tưởng thú vị, độc đáo và đậm màu sắc văn chương của tác giả về dòng sông thân thương của xứ Huế. Hương giang vốn đã đẹp, nay lại càng đẹp hơn, trọn vẹn hơn trong cảm nhận của người đọc. Một vẻ đẹp hài hòa giữa hình dáng bên ngoài với phần tâm hồn, tâm linh sâu thẳm bên trong.
Qua những cảm nhận nêu trên về sông Hương, có thể nhận thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tiếp cận và miêu tả dòng sông từ nhiều không gian, thời gian khác nhau. Ở mỗi điểm nhìn, mỗi góc độ, nhà văn đều thể hiện một cảm nghĩ sâu sắc và khá mới mẻ về con sông đã trở thành biểu tượng của xứ Huế. Từ trong những cái nhìn ấy và qua giọng điệu của các đoạn văn, ta thấy bàng bạc một tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết, một niềm tự hào và một thái độ trân trọng, gìn giữ của nhà văn đối với những vẻ đẹp tự nhiên và đậm màu sắc văn hóa của dòng sông quê hương.
* Sông Hương là dòng sông của lịch sử và thi ca.
Sông Hương là bản hùng ca ghi dấu các chiến công oanh liệt của dân tộc. Ở góc nhìn lịch sử, sông Hương gắn liền với những thế kỉ vinh quang của Đất Nước từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi ở thời đại các vua Hùng. Trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, sông Hương được biết đến với tư cách là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt”. Tiếp nối truyền thống đó, con sông “vẻ vang soi kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỉ XVIII, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa”. Thế kỷ XX, sông Hương “đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển” để rồi sau đó nó tiếp tục có mặt trong những năm tháng bi hùng nhất của lịch sử đất nước với cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ ác liệt.
Sông Hương mang vẻ đẹp giản dị của một người con gái dịu dàng của đất nước. Điều làm nên vẻ đẹp đáng trân trọng và đáng mến của con sông là khi nghe lời gọi của Tổ quốc “nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công” nhưng khi “trở về với cuộc sống bình thường” sông Hương tự nguyện “làm một người con gái dịu dàng của đất nước”. Những đổi thay này của sông Hương ngỡ bất ngờ mà không hề bất ngờ bởi nó đã mang cái dáng dấp, cái vẻ đẹp của đất nước và con người Việt Nam suốt mấy nghìn năm qua :
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa
(Nguyễn Đình Thi)
Lịch sử – hùng tráng và đời thường – giản dị, sông Hương đã tự biết thích ứng với từng hoàn cảnh, không gian và thời gian khác nhau. Điều đó không chỉ khiến cho dòng sông luôn trở nên mới mẻ trong cảm nhận của con người mà còn có thêm những vẻ đẹp mới.
Sông Hương là dòng sông thi ca. Với vẻ đẹp độc đáo và đa dạng, lại không bao giờ tự lặp lại mình nên sông Hương luôn có những vẻ đẹp mới, có khả năng khơi những nguồn cảm hứng mới cho các văn nghệ sĩ đặc biệt là các nhà thơ. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”. Tản Đà thấy “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Hàn Mặc Tử thì cảm nhận về sông Hương như dòng “sông trăng” lung linh, thơ mộng : “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó. Có chở trăng về kịp tối nay”. Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông Hương mà bâng khuâng: “Con sông dùng dằng con sông không chảy. Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại giúp nhà thơ thăng hoa những vần thơ mê đắm:
“Con sông đám cưới Huyền Trân. Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn. Hèn chi thơm thảo nỗi buồn. Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ. Con sông nửa thực nửa mơ. Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”.
Bài kí mở đầu bằng một câu hỏi đầy trăn trở : “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” nhưng phải gần đến kết thúc, đến những dòng cuối cùng của bài bút kí nhà văn mới đưa ra câu trả lời cho nó. Có nhiều cách để trả lời câu hỏi trên nhưng nhà văn đã chọn cho mình một “đáp án” đầy chất trữ tình : “Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi“. Tuy nhiên, nếu đọc kĩ thì ta sẽ thấy câu hỏi ấy thực ra đã được trả lời ngay từ những dòng đầu tiên và tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện cho đến dòng cuối cùng của bài kí. Nói cách khác, chính thiên nhiên hoang dại và trữ tình “đã đặt tên cho dòng sông”; chính lịch sử hào hùng và truyền thống văn hóa đậm bản sắc của xứ Huế “đã đặt tên cho dòng sông”; và chính con người với tình yêu thiết tha của mình dành cho con sông quê hương đã góp phần tạo nên “tên tuổi” của nó.
Tóm lại, nếu xem sông Hương là một công trình nghệ thuật tuyệt tác mà tạo hoá đã dày công tạo dựng thì cũng có thể coi hình tượng sông Hương trong bài bút kí này là một tượng đài nghệ thuật diệu kỳ mà người nghệ sĩ ngôn từ đã dành tất cả tâm huyết và tinh huyết của mình để “chạm khắc”. Có thể nói, sông Hương đã được sinh ra một lần nữa trong tình yêu và sự tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tôi bỗng nhớ câu nói của một triết gia phương Tây : Mọi thứ trên đời đều sợ thời gian bởi thời gian sẽ phủ lớp bụi của mình lên vạn vật để làm mờ tất cả. Nhưng thời gian lại sợ những vĩ nhân bởi chỉ có các vĩ nhân là tồn tại vĩnh hằng. Dù biết rằng “mọi sự so sánh là khập khiễng”, tôi vẫn cứ nghĩ : con sông Hương thơ mộng của xứ Huế và đất nước Việt Nam, con sông Hương của văn học nghệ thuật trong bài ký xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ trường tồn với thời gian, nhịp bước cùng năm tháng./.
2. Cái “tôi” của nhân vật trữ tình.
Ở thể loại bút kí, sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ phụ thuộc vào những ghi chép của tác giả với lượng tri thức phong phú, thông tin văn hóa mới mẻ mà còn tùy thuộc vào sự cuốn hút, cái “duyên ngầm” của cái “tôi” nhà văn. Trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã bộc lộ mình như một nhà thơ viết văn xuôi, một nhà văn có tâm hồn thi sĩ. Đó là người nghệ sĩ có năng lực khảo cứu của nhà khoa học, là một nhà khoa học mang trong mình cốt cách của người nghệ sĩ tài hoa. Chính sự đan cài, “hai trong một” của các yếu tố ấy đã làm nên một hình tượng cái tôi đầy hấp dẫn, có sức mời gọi bạn đọc, góp phần quan trọng vào thành công của tác phẩm.
* Một cái tôi mê đắm và tài hoa.
Ấn tượng đầu tiên về cái tôi trữ tình Hoàng Phủ Ngọc Tường có lẽ là ở sự mê đắm và tài hoa khi viết về con sông Hương của xứ Huế. Trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ? nhà văn đã dành nhiều tâm trí, tình cảm, tài năng của mình để say sưa khám phá và miêu tả vẻ đẹp của Hương giang. Thật vậy, trên mỗi chặng hành trình của dòng sông từ thượng nguồn đổ về xuôi rồi đi ra biển, con sông đều hiện lên với một vẻ đẹp khác nhau.
Ở thượng nguồn, sông Hương không chỉ được hình dung như “bản trường ca của rừng già” – một khúc ca dài hùng tráng và lãng mạn của đại ngàn thiên nhiên hùng vĩ mà còn mang dáng dấp của một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Đến khi rời vùng núi để về đồng bằng, con sông lại giống như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức”. Chảy giữa lòng thành phố yêu thương, sông Hương là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Và trước khi chia tay “người tình mà nó mong đợi” ở “thị trấn Bao Vinh xưa cổ” sông Hương cứ như thể là nàng Kiều trở về tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa… Đấy là góc nhìn địa lý.
Từ góc nhìn lịch sử, con sông của xứ Huế cũng hiện lên trong cảm hứng say mê ngợi ca của nhà văn. Đó là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Trong chiến tranh, nó “biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công”. Nhưng khi trở về đời thường, nó lại lặng lẽ, khiêm nhường làm một “người con gái dịu dàng của đất nước”. Thì ra, với Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ lâu sông Hương đã không còn là một dòng chảy địa lý thuần túy mà nó giống như một người dân Việt Nam yêu nước trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng của dân tộc. Nó mang trong mình những vẻ đẹp truyền thống đã làm thành bản sắc của văn hóa Việt :
Sống vững trãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa
(Huy Cận)
Có thể nói, bằng tình yêu và tài năng của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm kiếm, phát hiện và khẳng định những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương. Hành trình chữ nghĩa ấy về con sông xứ Huế không chỉ nói lên tình cảm yêu mến, sự say mê đến độ đắm đuối của nhà văn trước những vẻ đẹp độc đáo, đa dạng của Hương giang mà còn cho thấy sự tài hoa, chất lãng mạn bay bổng của tác giả.
Nhưng tài hoa của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài kí không chỉ thể hiện ở cách nhìn nhận và phát hiện về vẻ đẹp đáng yêu của dòng sông mà còn bộc lộ ở những suy cảm ấy đầy chất thơ với có sức cuốn hút lạ thường. Chẳng hạn như khi tác giả nhìn thấy sự tương đồng giữa những bức tranh phong cảnh trong truyện Kiều với khung cảnh thiên nhiên hữu tình của Huế, với dòng sông Hương thơ mộng : “dòng sông đáy nước in trời và nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết”. Ông đã thấy “sông Hương và thành phố của nó” như hình ảnh “của cặp tình nhân lý tưởng của truyện Kiều”, như đôi tài tử giai nhân Thúy Kiều – Kim Trọng “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”. Điều này, thậm chí, còn được lặp lại một lần nữa khi nhà văn tưởng tượng chỗ rẽ của dòng sông để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ với “nỗi vương vấn” của nàng Kiều “chí tình” trở lại tìm Kim Trọng “để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Vậy đó, địa thế của con sông, khúc đổi chiều của dòng nước đã được nhà văn hình dung như nỗi niềm, tâm sự của con người, của Thúy Kiều trong trang sách của Nguyễn Du…
Sẽ thật là thiếu sót nếu nói đến sự tài hoa của cái “tôi” Hoàng Phủ Ngọc Tường mà không nhắc đến vẻ đẹp của ngôn ngữ. Bởi văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Chữ nghĩa chính là nơi phô bày tất cả tài nghệ của nhà văn. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng không phải là ngoại lệ. Sự tài hoa của cái “tôi” tác giả hiện hiện rõ trên từng câu chữ. Ở đây, dường như có bao nhiêu góc nhìn, điểm nhìn về sông Hương thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được huy động để đặc tả cho thật ấn tượng, thật sắc, thật tinh hình hài và tâm hồn của con sông xứ Huế. Thậm chí, từng đường đi nước bước của con sông cũng được cái kho ngôn ngữ giàu có và tài hoa ấy làm cho thỏa mãn. Chẳng hạn như đoạn nhà văn miêu tả con sông Hương ở thượng lưu: “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
Hay như đoạn nhà văn miêu tả sông Hương rời khỏi vùng núi xuôi về đồng bằng chuẩn bị vào lòng thành phố Huế: “qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Đây là hai trong số những đoạn văn tiêu biểu trong bài kí. Chúng cho thấy bút lực dồi dào của nhà văn. Đó là một lối hành văn uyển chuyển, ngôn từ đa dạng và giàu hình ảnh. Từng từ, cụm từ, từng vế trong câu văn giống như một nét vẽ tài hoa của người họa sĩ, một động tác chạm khắc tinh xảo của nhà điêu khắc mà sau mỗi đường cọ, mỗi động tác nhào nặn, vẻ đẹp của sông Hương lại hiện ra một cách đặc sắc, đem đến cảm giác bất ngờ, ngỡ ngàng cho người đọc.
Bên những đoạn văn như thế, ta không khó để bắt gặp trong thiên tùy bút này (mà ở đây mới chỉ là đoạn trích) những cách diễn đạt của một “phu chữ”, của người đã cất công lựa chọn trong cái vốn ngôn ngữ toàn dân những từ, ngữ hay nhất có thể, rồi tổ chức, sắp đặt chúng theo một lối riêng nhằm tạo ra những ý văn hay, những câu văn đẹp. Chẳng hạn: “như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long […], nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Đó là chưa kể đến những ý văn đẹp như một ý thơ : “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”; “những vấn vương của một nỗi lòng”; “đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói”;… Có thể khẳng định đây không phải là lối diễn đạt thông thường của văn xuôi, nhất là ở thể kí mà là những kiểu chữ nghĩa thường thấy trong thơ ca, thậm chí còn thơ hơn nhiều bài thơ mà ta đã đọc đâu đó.
Trong sự tài hoa của cái tôi nhà văn về ngôn ngữ, thiết tưởng cũng không nên bỏ qua các thủ pháp nghệ thuật mà nhà văn đã sử dụng một cách thành công, ví như nhân hóa và so sánh. Bằng thủ pháp nhân hóa, nhà văn đã thổi hồn vào sông Hương, biến con sông vô tri vô giác thành một sinh thể có tính cách, có nỗi niềm, tâm trạng như con người. Con sông ấy lúc “rầm rộ” và “mãnh liệt”, lúc “dịu dàng” và “say đắm”; khi thì “nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”; khi thì “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”; khi là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, khi “trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”… Không chỉ có thế, chính nhà văn trong bài kí này đã giãi tỏ trực tiếp về cái thủ pháp nhân hóa mà mình sử dụng – cái thủ pháp mà dường như ông không thể không dùng đến khi khám phá, phát hiện ra những vẻ đẹp bất ngờ, thú vị của sông Hương: “Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.
Có thể nói, thủ pháp nhân hóa đã được nhà văn sử dụng rất hiệu quả trong bài kí. Nhờ nó mà hành trình về xuôi của sông Hương đã trở thành hành trình tâm hồn của người con gái tìm đến người tình mà nó mong đợi. Cũng nhờ thủ pháp ấy mà những kiến thức địa lý, lịch sử, văn hóa đã được thăng hoa để trở thành những tri thức nghệ thuật đẹp về đất nước, con người, về dòng sông yêu thương của Huế.
Cùng với nhân hóa là so sánh. Ở đây, so sánh được thực hiện trên cơ chế của một sự liên tưởng, tưởng tượng mạnh mẽ, với nhiều bất ngờ, thú vị. Chính những liên tưởng ấy đã giúp nhà văn xây dựng được nhiều hình ảnh so sánh độc đáo, đưa đến những cảm nhận mới mẻ, đặc sắc về sông Hương. Chẳng hạn, nhân vật tôi đã so sánh cái hữu hình, hữu ảnh của dòng sông với cái vô hình, vô ảnh của cảm xúc nội tâm con người: “đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Hay chỗ rẽ của sông Hương ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ được ví như “nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”…
Chưa hết, bài kí còn có những hình ảnh so sánh đẹp như một hình ảnh thơ : “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non”. Đặc biệt, để làm nổi bật dòng chảy trôi lững lờ của sông Hương như một “điệu slow tình cảm”, cái tôi trong bài kí đã so sánh bằng một hồi ức. Ấy là khi tác giả đến Lê-nin-grát, đứng nhìn sông Nê-va băng băng lướt qua trước cung điện Pê-tec-bua ra biển Ban-tích. So sánh này càng trở nên thú vị khi nhà văn đã gián tiếp đặc tả dòng chảy rất nhanh của sông Nê-va qua hình ảnh của những chú hải âu đứng co một chân trên những phiến băng mà không kịp nói điều gì với người bạn của chúng…
Như vậy, với những gì đã đề cập trên, ta có thể khẳng định cái tôi nhà văn trong bài kí này là một cái tôi mê đắm và tài hoa. Cái tôi ấy đã phát huy (dường như là tối đa) trí tưởng tượng bay bổng, khả năng liên tưởng tuyệt vời cùng kho từ vựng giàu có để tạo dựng nên một dòng sông nghệ thuật quyến rũ trên mỗi trang văn. Dường như tác giả đã dành những câu chữ đẹp nhất trong vốn liếng ngôn ngữ của mình để gọi tên sông Hương, để định danh những vẻ đẹp vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo của nó. Những lời hay ý đẹp ấy đâu phải dễ thường mà có ngay được. Nó hẳn phải là kết tinh của tình yêu sâu đậm, của những hiểu biết tường tận về dòng sông và của một lối tư duy sắc bén đã được tưới tắm trong niềm xúc cảm say mê, để rồi thăng hoa trong cảm hứng nghệ thuật.
* Một cái tôi uyên bác, giàu tri thức về địa lý, lịch sử, văn hóa Huế.
Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là một bài bút kí. Tuy nó nghiêng nhiều hơn về phía tùy bút, tức là thiên về chất trữ tình và sự phóng khoáng nhưng cái hồn cốt của thể loại không vì thế mà mất đi. Bản chất của kí là ghi chép và người viết kí chính là thư kí trung thành nhất của thời đại. Hoàng Phủ Ngọc Tường là một “thư kí” như thế, thậm chí còn là một “thư kí” xuất sắc vì ông có vốn hiểu biết sâu rộng về địa lý, lịch sử, văn hóa của sông Hương. Ông tỏ ra am hiểu tường tận những gì mình viết. Với sông Hương, nhà văn không chỉ nắm bắt từng chỗ “rầm rộ”, “mãnh liệt”, “cuộn xoáy”, những chỗ “dịu dàng”, “say đắm”…; không chỉ thông thuộc từng “khúc quanh”, chỗ “chuyển dòng” của con sông trong từng không gian địa lý mà còn tường tận cả chiều dài lịch sử của sông Hương từ thuở nó còn là một dòng sông biên thùy xa xôi ở thời đại các vua Hùng…
Nhưng thú vị nhất vẫn là những khám phá, phát hiện của nhà văn về đặc điểm văn hóa của sông Hương. Dấu tích văn hóa in đậm ở cả trên và hai bên bờ sông. Đó là cái vẻ trầm mặc như triết lí, như cổ thi của con sông khi chảy bên những lăng tẩm đền đài của các đời vua chúa triều Nguyễn ; là nền âm nhạc cổ điển đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này. Đó còn là dòng sông thi ca – nơi đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao văn nghệ sĩ, nhất là các nhà thơ, như Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”; như Hàn Mặc Tử thấy dòng “sông trăng” lung linh, thơ mộng: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó. Có chở trăng về kịp tối nay”; như Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông Hương mà bâng khuâng: “Con sông dùng dằng con sông không chảy. Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”…
Và nhắc đến sắc màu văn hóa của sông Hương thiết nghĩ không thể không nhắc đến một giai thoại đẹp mà nhà nhà văn đã phải kì công lục tìm đâu đó trong kho tư liệu bác học của xứ Huế hoặc trong cái vốn văn hóa dân gian của người bình dân xưa về nguồn gốc tên gọi của con sông : “Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi”. Giai thoại này, không phải ai cũng biết, kể cả những người sống lâu năm ở Huế. Vì thế, nó trở thành một thông tin mà nhiều người phải ngỡ ngàng trong sự thích thú dù có thể không ít lần họ đã đến Huế, đến sông Hương, thậm chí đã từng đặt ra câu hỏi Ai đã đặt tên cho dòng sông ? nhưng chưa có được câu trả lời ưng ý.
Có thể nói, bằng những hiểu biết phong phú, nhà văn đã cung cấp cho người đọc một lượng thông tin lớn về địa lý, lịch sử, văn hóa Huế nói chung và sông Hương nói riêng. Vốn kiến văn sâu rộng đó hẳn phải là kết quả của nhiều chuyến du lãm và du khảo của nhà văn suốt dặm dài của mảnh đất cố đô. Nhưng cái chính vẫn là những trang ghi chép về Hương giang đã được tưới tắm trong vô vàn cung bậc cảm xúc phong phú của tác giả, đã thăng hoa trong cảm hứng mê đắm và sự tài hoa của nhà văn.
* Một cái tôi yêu quê hương đất nước, gắn bó mật thiết với xứ Huế.
Phải yêu Huế, gắn bó với sông Hương đến mức nào, Hoàng Phủ Ngọc Tường mới có được những trang viết đầy ắp tri thức và rất đỗi tài hoa về Hương giang như vậy. Tài năng nghệ thuật là một phần, cái yếu tố tiên quyết trong nghệ thuật vẫn là tình cảm, cảm xúc chân thành, sâu đậm. Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương đã chiếm trọn tâm hồn ông bởi chính nó đã khiến trái tim ông phải ngân rung những giai điệu yêu thương với những cung bậc khác nhau : khi thì băn khoăn, trăn trở, e ngại con người – vì “mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành” của sông Hương – mà có thể “không hiểu một cách đầy đủ bản chất” của nó, “không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ”; khi lại nhớ đến nao lòng một nét sông Hương với “điệu chảy lững lờ” mà ông gọi là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”; có khi “thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày” bởi “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông”…
Những cảm xúc ấy chỉ là một số ít trong rất nhiều những biểu hiện của tình cảm gắn bó yêu thương đối với sông Hương mà nhà văn đã trực tiếp nói ra và kín đáo thể hiện. Như I.Ê-ren-bua đã từng viết : “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường giang Von-ga, con sông Von-ga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu gia đình, yêu miền quê trở thành tình yêu tổ quốc”, tình cảm đối với sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường, xét đến cùng, là tình cảm đối với đất nước, là tấm lòng yêu mến quê hương xứ sở nồng nàn của nhà văn.
Nhà thơ Ra-xun Gam-da-tôp đã từng nói : “Nếu nhà thơ không tham gia vào việc hoàn thành thế giới thì thế giới đã không được đẹp đẽ như thế này”. Dù Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là nhà thơ tiêu biểu (tuy ông đã xuất bản hai tập thơ) mà là một nhà viết kí, nhưng bằng bài kí đặc sắc này, ông đã góp một tay vào việc tạo nên một thế giới Việt Nam Đẹp và Thơ. Và đó là gì nếu như không phải là hành động yêu nước mang màu sắc riêng của người nghệ sĩ tài hoa này!
* MỘT SỐ ĐỀ LUYỆN TẬP.
Đề 1. Phân tích những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương qua bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Đề 2 . Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng cái tôi tác giả trong bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Đề 3 . Phân tích vẻ đẹp trữ tình của những dòng sông đất Việt qua Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân.
Đề 4. Phân tích vẻ đẹp độc đáo của các dòng sông Việt Nam qua Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân và ” Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Từ đó so sánh phong cách nghệ thuật của hai tác giả.
Đề 5. Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn văn sau :
“Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình , đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. ….. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ của một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về . ..” (Người lái đò sông Đà – Nguyễn Tuân)
(…) Từ tuần về đây sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm , và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách , với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai , Lưu Bảo mà từ đó , người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa , với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mãng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, ” sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”như người Huế thường miêu tả (…) (” Ai đã đặt tên cho dòng sông?” – Hoàng Phủ Ngọc Tường).
Đề 6. “Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin về văn hóa lịch sử rất phong phú” (Ngữ văn 12 – Tập I).
Anh /chị hãy phân tích bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường để làm rõ nhận định trên.
Làm rõ ngòi bút tài hoa, uyên bác của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?