di-bo-ngao-du-sgk-ngu-van-8-tap-2

Văn bản “Đi bộ ngao du (Ru-xô), SGK Ngữ văn 8, Tập 2

Đi bộ ngao du
(trích Ê-min hay Về giáo dục của Ru-xô)

Tôi chỉ quan niệm được một cách đi ngao du[1] thú vị hơn đi ngựa: đó là đi bộ. Ta ưa đi lúc nào thì đi, ta thích dừng lúc nào thì dừng, ta muốn hoạt động nhiều ít thế nào là tuỳ.

Ta quan sát khắp nơi; ta quay sang phải, sang trái; ta xem xét tất cả những gì thấy hay hay; ta dừng lại ở tất cả mọi khía cạnh. Tôi nhìn thấy một dòng sông ư, tôi đi men theo sông; một khu rừng rậm ư, tôi đi vào dưới bóng cây; một hang động ư, tôi đến tham quan[2]; một mỏ đá ư, tôi xem xét các khoáng sản[3]. Bất cứ đâu tôi ưa thích, tôi lưu lại đấy. Hễ lúc nào tôi thấy chán, tôi bỏ đi luôn. Tôi chẳng phụ thuộc vào những con ngựa hay gã phu trạm[4]. Tôi chẳng cần chọn những lối đi có sẵn hay những con đường thuận tiện; tôi đi qua bất cứ nơi nào con người có thể đi qua; tôi xem tất cả những gì mà con người có thể xem; và, chỉ phụ thuộc vào bản thân tôi, tôi hưởng thụ tất cả sự tự do mà con người có thể hưởng thụ. Nếu do thời tiết xấu không đi bộ được mà thấy chán rồi, lúc đó tôi đi ngựa. Nếu tôi mệt… nhưng Ê-min có mệt gì lắm đâu; em to khoẻ; và sao em lại mệt được cơ chứ, em chẳng hề vội vã. Nếu em dừng lại, làm sao em có thể chán được, ở chốn nào em cũng có những thứ để giải trí. Em vào nhà một người thợ, em làm việc; em vận động hai cánh tay để cho đôi bàn chân nghỉ ngơi.

Đi bộ ngao du là đi như Ta-lét, Pla-tông và Pi-ta-go[5]. Tôi khó lòng hiểu nổi một triết gia[6] có thể quyết định ngao du cách khác mà không xem xét những tài nguyên[7] mình giẫm chân lên và trái đất phô bày phong phú ra trước mắt. Ai là người yêu mến nông nghiệp chút ít mà lại không muốn biết các sản vật[8] đặc trưng[9] cho khí hậu những nơi mình đi qua và cách thức trồng trọt những đặc sản[10] ấy? Ai là người có chút ít hứng thú với tự nhiên học[11] mà lại có thể quyết định đi ngang một khoảnh đất mà không xem xét nó, một lèn đá[12] mà không ghè[13] vài mẩu, những quả núi mà không sưu tập hoa lá, những hòn sỏi mà không tìm các hoá thạch[14]!

Những triết gia phòng khách[15] của các ngài nghiên cứu tự nhiên học trong các phòng sưu tập; họ có các thứ linh tinh[16]; họ biết gọi tên nhưng chẳng có một ý niệm gì về tự nhiên cả. Nhưng phòng sưu tập của Ê-min thì phong phú hơn các phòng sưu tập của vua chúa; phòng sưu tập ấy là cả trái đất. Nơi đây, mỗi vật đều ở đúng chỗ của nó; nhà tự nhiên học làm công việc chăm sóc đã sắp xếp mọi thứ đâu ra đấy. Đô-băng-tông[17] chắc cũng không thể làm tốt hơn.

Biết bao hứng thú khác nhau ta tập hợp được nhờ cách ngao du thú vị ấy, không kể sức khoẻ được tăng cường, tính khí trở nên vui vẻ. Tôi thường thấy những kẻ ngồi trong các cỗ xe tốt chạy rất êm nhưng mơ màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc đau khổ; còn những người đi bộ lại luôn luôn vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với tất cả. Ta hân hoan biết bao khi về gần đến nhà! Một bữa cơm đạm bạc[18] mà sao có vẻ ngon lành thế! Ta thích thú biết bao khi lại ngồi vào bàn ăn! Ta ngủ ngon giấc biết bao trong một cái giường tồi tàn! Khi ta chỉ muốn đến một nơi nào, ta có thể phóng bằng xe ngự a trạm; nhưng khi ta muốn ngao du, thì cần phải đi bộ.

Chú thích.

[1] Ngao du: đi dạo chơi đó đây (ngao: rong chơi; du: đi chơi).
[2] Tham quan: đi đến nơi nào đó để xem xét, mở mang hiểu biết.
[3] Khoáng sản: sản vật khai thác từ các mỏ ở dưới lòng đất.
[4] Phu trạm: ở đây là người điều khiển xe ngựa chạy từng trạm đường phương tiện đi lại phổ biến ở Pháp nói riêng và ở nhiều nước châu Âu nói chung hồi thế kỉ XVIII.
[5] Pla-tông (429 – 347 TCN) là nhà triết học Hi Lạp; Ta-lét (640 – 548 TCN) và Pi-ta-go (khoảng 570 – 496 TCN) là các nhà triết học và toán học Hi Lạp. Các nhà triết học và toán học Hi Lạp thời cổ ấy luôn luôn quan sát, nghiền ngẫm trong lúc đi dạo chơi.
[6] Triết gia: nhà triết học; ở đây đồng thời cũng là nhà khoa học.
[7] Tài nguyên: nguồn của cải trong thiên nhiên chưa khai thác hoặc đang được khai thác (tài: của cải, nguyên: nguồn).
[8] Sản vật: vật được làm ra hoặc lấy được từ trong thiên nhiên.
[9] Đặc trưng: có tính chất riêng và tiêu biểu (đặc: riêng, khác thường; trưng: tiêu biểu).
[10] Đặc sản: sản vật quý, riêng có ở một địa phương.
[11] Tự nhiên học: khoa học quan sát, nghiên cứu các sinh vật, vật thể trong tự nhiên.
[12] Lèn đá: núi đá có vách cao dựng đứng.
[13] Ghè: đập vào mép hay cạnh của vật rắn để làm vật đó vỡ hoặc mẻ dần.
[14] Hoá thạch: di tích hoá đá của thực vật, động vật cổ xưa còn lưu lại ở các tầng đất đá.
[15] Triết gia phòng khách: ý muốn nói đến các nhà triết học, khoa học hời hợt thường có mặt để trò chuyện trong những buổi tiếp khách của các phu nhân quý tộc ở Pháp thế kỉ XVIII.
[16] Các thứ linh tinh: ý muốn nói đến các mẫu vật nhằm thoả mãn tính hiếu kì của mọi người hơn là có ý nghĩa khoa học.
[17] Đô-băng-tông (1716 – 1800): nhà tự nhiên học nổi tiếng của Pháp.
[18] Đạm bạc: (nói về ăn uống) đơn sơ, bình thường, không có các món ăn ngon, đắt tiền.

Bài này trích trong quyển V – quyển cuối cùng của tác phẩm Ê-min hay Về giáo dục (ra đời năm 1762). Trong tác phẩm, nhà văn bàn về chuyện giáo dục một em bé – ông đặt cho cái tên là Ê-min – từ lúc sơ sinh cho đến tuổi trưởng thành. Ê-min trong bài Đi bộ ngao du đã lớn. Văn bản ở đây là do người biên soạn SGK dịch và đặt nhan đề.

Nguồn: Ru-xô, Ê-min hay Về giáo dục, Pa-ri, 1958.


Soạn bài:

Câu 1: Ba luận điểm ứng với 3 đoạn của văn bản:

– Người ta sẽ cảm nhận được ý nghĩa của tự do, thoát khỏi những ràng buộc khi đi bộ ngao du. (đoạn 1: từ “Tôi chỉ quan niệm..” đến “cho đôi bàn chân nghỉ ngơi”)

– Bằng hình thức đi bộ ngao du, người ta có thể tuỳ thích lựa chọn, thu lượm những tri thức mà mình quan tâm. (Đoạn 2: “Đi bộ ngao du là đi như” đến “không thể làm tốt hơn”)

– Đi bộ ngao du là một hình thức giúp cho người ta khoẻ mạnh cả về tinh thần và thể chất. (Đoạn 3: từ “biết bao hứng thú” đến hết)

Câu 2: Trật tự các luận điểm ở đây được sắp xếp hợp lí. Hợp lí trong sự thể hiện tư tưởng của tác giả: lòng khao khát tự do. Suốt đời Rut-xô theo điểm đấu tranh cho tự do. Cho nên chủ đề về tự do được đề cập đến trước tiên. Tuổi thơ Rut-xô lại không được học hành, trong tình yêu tự do còn bao gồm cả khát khao tìm hiểu, học hỏi tri thức. Cho nên, chủ đề về thu lượm, trau dồi hiểu biết, tri thức về cuộc sống được ông đề cập đến tiếp sau chủ đề về tự do.

Câu 3: Nhà văn dùng đại từ nhân xưng “ta” khi đưa ra những khái quát, nhận định chung, dùng “tôi” khi bộc lộ những thể nghiệm sinh động của riêng mình. Những nhận định chung, khái quát đi được bổ sung bằng những thể nghiệm của cá nhân nhà văn khiến cho chất nghị luận của bài văn không xơ cứng. Có khi nhà văn mượn vai Ê-min để thể hiện, thì thực chất cũng là một sự hoá thân từ cái “tôi” của tác giả để trình bày vấn đề sinh động hơn, hấp dẫn thuyết phục hơn.

Câu 4: Qua bài văn, chúng ta thấy một Ru-xô giản dị, gần gũi với tự nhiên, yêu tự do và luôn theo đuổi, khám phá những chân trời tri thức mới lạ.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang