»» Nội dung bài viết:
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
(Trích tùy bút Sông Đà của Nguyễn Tuân)
I. Tác giả, tác phẩm.
1. Tác giả: Nguyễn Tuân.
a. Con người Nguyễn Tuân:
– Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn lớn nhất của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX.
– Nguyễn Tuân là nhà văn giàu yêu nước và tinh thần dân tộc. Lòng yêu nước của ông có màu sắc riêng → Gắn với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.
– Ý thức cá nhân ở ông phát triển rất cao. Ông viết văn là để khẳng định cá tính độc đáo của mình, sống tự do phóng túng, ham thích du lịch.
– Ngòi bút nguyễn Tuân rất mực tài hoa. Ông không chỉ là nhà văn mà còn là người am hiểu nhiều ngành nghệ thuật khác( hội họa, điêu khắc, sân khấu…)
– Nguyễn Tuân rất quý trọng và nghiêm túc nghề văn. Ông cho rằng nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc.
b. Sự nghiệp văn chương:
* Trước Cách mạng tháng tám:
– Là cây bút văn xuôi trong thời kì cuối cùng của xu hướng văn học lãng mạn 1930-1945.
– Ông viết các tác phẩm thể hiện lòng yêu nước, yêu truyền thống văn hóa dân tộc và một số truyện thể hiện tâm trạng u uất trước cuộc đời tù đọng.
– Tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Một chuyến đi, Tóc chị Hoài.
* Sau Cách mạng tháng tám :
– Nguyễn Tuân hòa mình vào cuộc sống của nhân dân, tham gia thực tế kháng chiến, thể hiện cái nhìn ấm áp, niềm tin yêu cuộc sống và liên tiếp cho ra đời những tác phẩm mang tính thời sự,
– Tác phẩm tiêu biểu: “Tình chiến dịch”, “Tuỳ bút sông Đà”, “Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi”.
c. Phong cách nghệ thuật:
– Tài hoa, uyên bác:
+ Khám phá phát hiện sự vật ở phương diện văn hoá, thẩm mĩ.
+ Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
+ Tô đậm những nét phi thường, tuyệt vời của cảnh vật, con người
+ Vận dụng tri thức của nhiều ngành văn hoá, nghệ thuật khác nhau trong sáng tác
– Ngôn ngữ văn học điêu luyện:
+ Từ vựng phong phú.
+ Tổ chức câu văn xuôi có giá trị tạo hình cao, có nhạc điệu trầm bổng, cách phối âm, phối thanh linh hoạt,tài hoa.
– Sử dụng thể loại tùy bút thuần thục, có những thành tựu đặc sắc.
– Những chuyển biến trong phong cách nghệ thuật:
+ Trước Cách mạng tháng Tám 1945, phong cách Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ NGÔNG. Đó là thái độ khinh đời, ngạo đời dựa trên tài hoa, sự uyên bác và nhân cách hơn đời của mình.
+ Sau Cách mạng tháng tám, Nguyễn Tuân hòa nhập vào cuộc sống của nhân dân, ca ngợi cái đẹp không chỉ ở những tính cách phi thường mà còn ở cả những người lao động bình thường.
2. Tác phẩm: Người lái đò sông Đà.
a. Hoàn cảnh sáng tác:
– Tác phẩm là kết quả chuyến đi thực tế Tây Bắc của Nguyễn Tuân vào năm 1958. Ông đến với nhiều vùng khác nhau, sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn cuộc sống mới ở vùng cao và vẻ đẹp của thiên nhiên cùng “ thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở những con người lao động, chiến đấu trên miền núi sông thơ mộng ấy đã đem lại cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo và ông sáng tác tùy bút SÔNG ĐÀ (1960), trong đó có NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
b. Xuất xứ: Trích tuỳ bút “Sông Đà” (1960)
c. Nội dung:
– Người lái đò sông Đà là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc
– Tác phẩm còn cho thấy công phu lao động nghệ thuật khó nhọc cùng sự tài hoa, uyên bác của người nghệ sĩ Nguyễn Tuân trong việc dùng chữ nghĩa để tái tạo những kì công của tạo hóa và những kì tích lao động của con người.
d. Nghệ thuật:
– Tùy bút pha bút kí, kết cấu linh hoạt, vận dụng được nhiều tri thức văn hóa và nghệ thuật vào trong tác phẩm
– Nhân vật mang phong thái đời thường, giản dị
– Bút pháp: kết hợp hài hào giữa hiện thực và lãng mạn
– Ngôn ngữ hiện đại kết hợp với ngôn ngữ cổ xưa
PHÂN TÍCH NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ.
1. Hình ảnh con sông Đà: Sông Đà được miêu tả như một nhân vật có nguồn gốc, lai lịch, có tên tuổi, có tính cách.
* Nguồn gốc, lai lịch, tên tuổi: khai sinh ở huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam…xin nhập quốc tịch Việt Nam…,tên Bả Biên Giang, Ly Tiên
* Tính cách hung bạo hiểm ác:
– Địa hình hiểm trở: Sông Đà hiện lên dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân thật dữ tợn với những hút nước sâu thăm thẳm, những quãng sông đầy ghềnh thác, những vách đá dựng thành vách.
– Tính cách hung bạo, hiểm ác của con sông Đà được miêu tả tập trung ở khúc thác dữ ® nghệ thuật nhân hóa, so sánh được sử dụng một cách đặc sắc để miêu tả nước và đá ở khúc thác.
+ Âm thanh dữ dội, cuồng nộ à tiếng nước “ réo”, “tiếng nước thác nghe như là oán trách… van xin … khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo… nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng…”
+ Nước như một đội quân hùng mạnh, dữ tợn: “mặt nước hò la vang dậy… có lúc chúng đội cả thuyền lên”.
+ Ngoài nước, đá ở khúc thác dữ cũng được miêu tả một cách sinh động:
- Đá mai phục từ ngàn năm để nhổm cả dậy vồ lấy thuyền.
- Mỗi hòn đá đều có tư thế riêng: đứng, ngồi, nằm…nhưng tất cả đều ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó.
- Đá bày thạch trận trên sông với hàng tiền vệ, boong-ke chìm, pháo đài nổi, mỗi hòn đá như tướng dữ quân tợn chỉ chờ ăn chết cái thuyền .
- Đá như một đội quân hiểm ác, nhiều mưu mô, xảo quyệt à đánh khuýp quật vu hồi, dụ cái thuyền của đối phương, hất hàm hỏi cái thuyền…
* Nhận xét:
– Được khắc họa bằng ngòi bút miêu tả điêu luyện, độc đáo với các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, nổi bật là nghệ thuật so sánh,nhân hóa giàu liên tưởng và lớp ngôn ngữ tượng hình,phong phú làm nổi bật phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
– Sông Đà như một sinh thể có hồn, một nhân vật có tính cách, có hoạt động, là “kẻ thù số một” của người lái đò là một mụ dì ghẻ ác độc.
– Tính cách hung bạo, dữ dội của con sông “hung dữ nhất Đông Dương “cũng là vẻ đẹp hùng vĩ của Sông Đà.
* Tính cách trữ tình, thơ mộng, hiền hòa:
– Hình dáng “Sông Đà tuôn dài…nương xuân” : Từ trên cao nhìn xuống, sông Đà đẹp, thơ mộng, mềm mại, uyển chuyển như mái tóc của một người thiếu nữa. Câu văn giàu nhạc điệu kết hợp nghệ thuật so sánh độc đáo gợi liên tưởng Sông Đà như hình ảnh của người thiếu nữ Tây Bắc kiều diễm, trẻ trung, duyên dáng.
– Màu sắc: Màu nước sông Đà chuyển đổi theo tiết mùa, mùa xuân dòng xanh ngọc bích, mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Nước của dòng sông thay đổi theo mùa, theo phong cảnh hai bên bờ. Sự thay đổi sắc màu của dòng nước tạo cho Sông Đà vẻ đẹp thơ mộng, huyền ảo.
– Bờ sông Đà hiền hòa, hoang sơ, tĩnh lặng:
+ Chuồn chuồn , bướm bướm bay lượn…, cỏ gianh còn đẫm sương đêm, ngô non vừa mới nhú, đàn hươu…
+ So sánh độc đáo, sáng tạo: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa.
– Sông Đà gợi trong lòng người nhiều cảm xúc
+ Bâng khuâng, xao xuyến như gặp lại cố nhân.
+ Như đắm mình vào không khí thơ mộng, cổ kính của Đường thi.
+ Cảm nhận niềm vui tron vẹn như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm…
+ Cảm xúc tình tứ, tha thiết của một người tình nhân chưa quen biết.
* Nhận xét:
– Với tài năng nghệ thuật của một nhà văn, đôi mắt của một họa sĩ và sự nhạy cảm, tinh tế của một tâm hồn yêu cái đẹp, ưa “xê dịch” kết hợp sự liên tưởng phong phú, độc đáo, Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà như một công trình nghệ thuật của tạo hóa.
– Qua đó tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên đất nước, niềm tự hào về cảnh sắc quê hương tươi đẹp, một biểu hiện của tình yêu nước.
– Xây dựng hình tượng Sông Đà Nguyễn Tuân thể hiện phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác:
+ Nhìn sự vật ở phương diện văn hóa thẩm mỹ, tô đậm cái phi thường, tuyệt vời của cảnh vật.
+ Vận dụng kiến thức của nhiều ngành khác nhau để xây dựng hình tượng con sông.
2. Hình ảnh người lái đò trên Sông Đà:
* Ngoại hình: Ông lái đò có một ngoại hình đặc biệt. Dấu ấn nghề nghiệp in đậm trên cơ thể, giọng nói, “nhỡn giới” của ông.
* Nguồn gốc, lai lịch:
– Ông lái đò Lai Châu, quê ở ngã tư sông sát tỉnh.
– Ông là người từng trải trong nghề chở đò dọc suốt sông Đà đã mười năm liền.
* Sự hiểu biết về sông Đà:
– Ông nắm chắc từng luồng lạch, từng ngọn thác… và đặc biệt ông nắm rất vững quy luật của “thần sông, thần đá” trên con sông nổi tiếng vùng Tây Bắc.
– Ông am hiểu sông Đà tường tận: Trí nhớ ông được rèn luyện ……. những đoạn xuống dòng.
→ Ông lái đò là người rất gắn bó với nghề nghiệp, từng trải trong nghề chèo đò.
– Ông rất thích vượt thác
* Cuộc vượt thác của ông lái đò:
– Trên nền sông nước Đà giang hùng vĩ ông lái đò hiên lên với tư thế của một dũng tướng tài năng và phong thái của một nghệ sĩ tài hoa trong cuộc vượt thác.
– Mặc dù bị thương, ông vẫn bình tĩnh cố nén vết thương để giữ vững tay lái, ông đương đầu với thác nước sông Đà một cách dũng cảm, quyết liệt, thông minh, táo bạo như một tay vượt thác nhà nghề à Vượt qua ba trùng vi thạch trận một cách điêu luyện, linh hoạt ( cưỡi lên thác sông Đà, nắm chắc lấy bườm sóng…).
– Sau cuộc vượt thác, ông lái đò ung dung tự tại “đốt lửa trong hang đá, bàn tán về cá anh vũ…”
* Ý nghĩa hình tượng nhân vật:
– Xây dựng hình tượng ông lái đò Nguyễn Tuân thể hiện phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác – nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ.
– Nguyễn Tuân đã khắc họa bức chân dung của con người lao động mới vừa hiên ngang, khí phách, oai phong, hùng dũng vừa tài hoa trong cuộc đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên để giành sự sống. Nhà văn cũng thể hiện quan niệm mới mẻ, độc đáo về người anh hùng và người nghệ sĩ:
+ Người anh hùng không chỉ xuất hiện trên chiến trường mà còn có trong cuộc sống lao động hằng ngày, trong cuộc chiến đấu với thiên nhiên để giành sự sống.
+ Người nghệ sĩ không chỉ làm công tác nghệ thuật mà còn là người có tài, có tâm huyết trong nghề nghiệp.
3. Nhận xét.
– Nội dung: Giới thiệu, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động ở miền Tây Bắc của Tổ quốc. Qua hình ảnh ông lái đò và con sông Đà, tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước, con người và cuộc sống mới ở vùng cao Tây Bắc. “Người lái đò Sông Đà” tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân: uyên bác, tài hoa, ngôn ngữ kì tài của “bậc thầy ngôn ngữ tiếng Việt”.Thiên tuỳ bút ấy đã kế thừa nét riêng biệt đặc sắc về đề tài, nguồn cảm hứng trong phong cách của Nguyễn Tuân – cảm hứng trước cái dữ dội, tài hoa, tuyệt mỹ.
– Nghệ thuật: Thể hiện phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bật ngờ và thú vị. Từ ngữ phong phú, sống động, giàu hình ảnh và sức gợi cảm cao. Câu văn đa dạng, giàu nhịp điệu, giá trị tạo hình cao.
PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÁI ĐÒ TRÊN SÔNG ĐÀ.
- Mở bài
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.
- Thân bài:
1. Lai lịch xuất xứ của ông lái đò.
Khi được tác giả hỏi chuyện, người lái đò đã 70 tuổi, làm nghề đò dọc mười năm liền và đã nghỉ làm nghề đôi chục năm. Nhưng mười năm người lái đò đã in dấu ấn khá đậm ở ngoại hình ông lão: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù.
Những dòng này được nhà văn viết ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính người đó. Nguyễn Tuân là nhà văn luôn nén câu văn của mình nhiều điều muốn nói, “hàm lượng thông tin” ở đó không bao giờ chỉ ở một tầng hiển ngôn
2. Tính cách ông lái đò sông Đà:
– Là một người từng trải, dày dạn kinh nghiệm trong nghề.
Những nét tả ngoại hình của nhà văn cho thấy người lái đò thực sự là người từng trải, thành thạo nghề. Chưa đủ, Nguyễn Tuân còn cho biết: người lái đò còn là một linh hồn muôn thuở của sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần… Sự từng trải của người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mười ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả các con thác hiểm trở.
Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Không phải bỗng dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, ngọn thác hung dữ ở sông Đà
– Là một người có lòng dũng cảm phi thường.
Chỉ từng trải thôi chưa đủ, đối với con sông Đà, ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào ngay hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vựơt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một :
“Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xoá cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đat nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn…”
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Thế là kết thúc.
– Là một nghệ sĩ tài hoa:
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Song, quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc thiếu đèo. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác.
Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình.
Nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dế thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, người lái đò chỉ có Nguyễn Tuân. Và, lời ghi chú của nhà văn thật đáng để suy ngẫm !
- Kết bài.
Nổi bật trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là nhân vật chính diện luôn được nhà văn chú ý mô tả ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Nếu như trước cách mạng tháng Tám 1945, theo Nguyễn Tuân, cái tài hoa chỉ có ở lớp nhà nho trong quá khứ thì nay, trong Người lái đò sông Đà và nhiều tác phẩm khác, tác giả đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc sống hàng ngày của người dân lao động, trong hiện tại của đất nước. Cuộc đời của người lái đò vô danh, không tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một thiên anh hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” của con người, thì cũng chính thiên nhiên, qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con người vào lao động.
PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG OCN SÔNG ĐÀ.
- Mở bài:
Bằng phong cách nghệ thuật độc đáo: uyên bác, tài hoa, không quản nhọc nhằn để cố gắng khai thác kho cảm giác và liên tưởng phong phú, bộn bề nhằm tìm cho ra những chữ nghĩa xác đáng nhất, có khả năng lay động người đọc nhiều nhất, Nguyễn Tuân đã sáng tác được rất nhiều tác phẩm có giá trị lớn, trong đó có sông Đà, một thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà tác giả thu hoạch được trong chuyến đi tới vùng Tây Bắc tổ quốc xa xôi, rộng lớn. Ông đã tìm được cái chất vàng của thiên nhiên cùng thứ vàng mười đã qua thử lửa được thể hiện trong thiên tùy bút “người lái đò Sông Đà” mà con sông Đà với sự hung bạo, trữ tình và thơ mộng của nó đã được tác giả miêu tả thật tài hoa.
- Thân bài:
Sông Đà bắt nguồn từ huyện Cảnh Đông, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), đi qua một vùng núi ác, đến gần nửa đường xin nhập quốc tịch Việt Nam. Sông có tổng cộng 73 con thác dữ và có tổng chiều dài là 983 km. Qua cái nhìn của Nguyễn Tuân, con sông Đà trở nên có tính cách phong phú, phức tạp, như một cố nhân “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”.
– Sông Đà dữ dằn, hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh.
“Đường lên Mường Lễ bao xa – Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh” (Ca dao) và cái hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường. Vẻ nguy hiểm của sông không chỉ được thể hiện qua thác nghềnh mà đó còn là “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, một nơi hẹp như thế mà lưu tốc dòng nước vốn nhanh bây giờ lại trở nên xiết vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi.
Cũng như “quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng đấy”. Bằng kết cấu trùng điệp, tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất.
Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Thật là những cái bẫy ghê sợ, chết người !
Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Bằng nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm vô cùng. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó. Ông quả là một nghệ sĩ bậc thầy!
Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm:
Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la bão nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”.
Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vây thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Đúng là bọn đá sóng nước hiểm độc!
Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với “tay lái ra hoa”.
Qua đó, ta thấy con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước của nó, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà”. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.
– Sông Đà đậm nét thơ mộng, trữ tình.
“Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Một cách so sánh tài hoa, phong tình. Nước Sông Đà còn thay đổi theo mùa, trong đó đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.
Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, làm cho người đi rừng dài ngày “vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Sông Đà còn có những quãng, những không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”.
Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và tuyệt đẹp như thế, nhà văn bỗng cảm thấy“thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, muốn được đánh thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, “tịnh không một bóng người”, “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” mà không có ai chăm sóc, mà dường như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng vắng lặng như thế mà thôi. Thật buồn tẻ! Từ quá khứ nhà văn trở về với hiện tại và hướng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ có con người khai phá, đường xá sẽ được mở, những ngôi làng thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười nói của mọi người.
Rõ ràng cảnh vật nếu không có con người thì vẫn chỉ là hoang sơ, tẻ nhạt mà thôi! Đang mộng mơ bên cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có mối giao cảm kì lạ với loài vật: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Ở đây dường như là con vật hỏi người hay chính là người đang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng là thế, có những khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để rồi tiếng đập nước của ”đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến” đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu.
Trở về với thực tại, lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như Tản Đà khi trước: “Dải sông đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết”. Con sông Đà như một sinh vật có linh hồn, dòng nước trôi lững lờ “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn, như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Con sông trở nên hiền hòa và thơ mộng, nó “trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.
- Kết bài:
Bằng tình yêu thiên nhiên đất nước kết hợp với ngôn từ độc đáo, tài hoa, Nguyễn Tuân đã tái hiện lên một khung cảnh Tây Bắc thật hùng vĩ mà cũng thật trữ tình, làm ta thêm tự hào về núi sông Tổ quốc nguy nga, tráng lệ. Sông Đà quả là một quà tặng vô giá của thiên nhiên là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của bậc thầy tùy bút Nguyễn Tuân.
PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà… trên dòng trên”
- Mở bài:
Trong cuộc kháng chiến mất còn của dân tộc, những dòng sông, cánh đồng, mảnh đất, ngôi làng đã đồng hành sống và chiến đấu với con người và hóa thân vào văn chương thành những vẻ đẹp của quê hương, đất nước. Một sông Mã gầm khan trầm uất, một sông Đuống cuộn trôi mang bao ảnh hình xứ sở…Đến với Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta cùng tác giả vượt thác xuống ghềnh và rồi thả thuyền hồn trôi xuôi trong một đoạn tả sông Đà trữ tình: “ Thuyền tôi trôi trên sông Đà…trên dòng trên”.
- Thân bài:
Nếu ví người lái đò sông Đà như bản trường ca với những cung bậc khi mãnh liệt lúc réo rắt ngân vang thì đoạn văn trên là một khúc ca êm ái nhất. Không những thế đoạn văn còn như một bài thơ, với những ý tưởng vần điệu nhịp nhàng, mềm mại. Ở những giai đoạn trên, ta bắt gặp một con thuyền chiến của người lái đò, còn đây là một con thuyền thơ của một hồn văn đầy chất thơ. Nhưng phải chăng vì cả ông lái đò và tác giả đều là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình nên cả hai con thuyền đều là thuyền thơ, chỉ khác là một tứ thơ dữ dội, khốc liệt và một tứ thơ êm đềm, dịu dàng.
Hòa vào tứ thơ ấy, không gian liên tưởng của người đọc cứ mở ra mãi nhờ những cách so sánh đọc đáo. Các nhà văn khác thường so sánh cụ thể hóa sự vật còn Nguyễn Tuân, ông so sánh để làm vạn vật trở nên kích thích, mở rộng trí tưởng tượng. Hãy nghe cách so sáng của ông: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “ bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cố tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “ bờ sông” gợi đến bao cái vô hình “ bờ tiền sử”, “ nổi niềm cổ tích tuổi xưa”. Câu trên nghe hoang vắng, xa xăm. Câu dưới òa ập, xôn xao cảm xúc. Tác giả nhắc nhở tuổi thơ, ý văn tiếp nối với đoạn văn trên khui tả sông Đà “ loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Tuổi thơ như khoảng thời gian thần tiên trong hồn người. Và đi bên tuổi thơ của mỗi con người là tuổi thơ của nhân loại, bởi dòng sông nào cũng là chứng nhận của việc an cư lạc nghiệp, của biết bao biến đổi thăng trầm của lịch sử.
Nguyễn Tuân đã nhìn sự vật trong chiều sâu lịch sử, trong ý thức hướng về truyền thống khi nói cái “ lặng tờ” của cảnh sông. Dường như dòng sông lặng tờ lại càng lặng tờ hơn bởi bề dày lịch sử của mấy trăm năm cộng lại. Tiếp nối sức mạnh quá khứ là hình ảnh bờ sông – bờ tiền sử. Và khi nhà văn “ thêm được giật mình vì tiếng còn xe lửa” thì tương lai đã náo nức reo vui. Cứ thế văn Nguyễn Tuân đưa người đọc từ thế giới này đến thế giới khác một cách uyển chuyển khéo léo. Và phải chăng, Nguyễn Tuân đã viết văn đúng như quan niệm về thơ của ông “ từ một cái hữu hình nó thức dậy được những cái vô hình bao la, từ một cái điểm nhất định mà nó mở ra được một cái diện không gian thời gian”, khi so sánh bờ sông như vậy?
Ngoài ra, ông còn đem vật thể so sáng với tình cảm, cảm xúc trong hình ảnh” một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa hay như “ Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương…Con sông như đang lắng nghe…” Nguyễn Tuân đã nhập thân vào dòng sông để lắng nghe và xúc động, lòng dâng dầy chất thơ. Mơ mộng thay khi nối tiếp những vần thơ bập bềnh sông nước của Tản Đà là những cảm xúc rất thơ như thế! Thế giới vật chất, thế giới tinh thần xa xăm cứ thế mà nối qua những liên tưởng của nhà văn. Con sông đang “ nhớ thương”, đang “ lắng nghe” hay chính nhà văn đang thương nhớ, lắng nghe những tâm tình của cuộc sống?.
Chất thơ của đoạn trích còn thể hiện ở cách viết văn như thơ của Nguyễn Tuân. Câu mở đoạn “ Thuyền tôi trôi trên sông Đà” êm êm những thanh bằng như một câu lục trong thơ lục bát. Vần lưng “ tôi trôi” và điệp âm “ t” gợi hình ảnh con thuyền nổi trên mặt sông. Những thanh ngang nằm giữa hai thanh bằng hai đầu câu văn như tạo một khoảng ngưng đọng cho cảm xúc. Thuyền trôi mà như không trôi, như tình cảm cứ đọng mãi, chất chứa trong thuyền. Và cụm từ “thuyền tôi trôi” ấy cứ như một điệp khúc bằng lặng trong suốt cả đoạn văn. Đây là một kiểu trùng rất đặc trưng của thơ hay cũng là sự điệp trùng của cảm xúc. “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô..”, “thuyền tôi trôi trên dải sông Đà…” tưởng như thuyền hồn người đọc cũng xuôi lặng theo dòng tâm tư khởi toàn thanh bằng nhẹ bỗng như thế.
Hồn người như tan ra hòa cùng cảnh sắc. Con thuyền cũng trôi trên một dòng sông cũng lững lờ trôi theo những câu văn ngắn, chảy dài, chảy dài theo những câu văn dài. Có phải câu văn cứ khi dài, khi ngắn linh hoạt như dòng chảy lúc nhanh lúc chậm của con sông? Câu “ Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” xao động với những thanh trắc nhỏ nhẹ cố như khép lại nén lại cảm xúc đang dân trào. Ngoài câu văn mở đầu với sáu thanh bằng còn có vế câu nhiều thanh bằng nữa như “ chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên…”. Những thanh bằng ấy như cố lắng xuống để ghi nhận trong khoảnh khắc ánh nhìn của chú nai tơ. Và hai từ láy “ chăm chăm”, “ lừ lừ” chỉ trong một vế câu ngắn như đong đầy cảm xúc. Ngoài ra còn có những từ láy khác như “ lững lờ”, xa xôi, êm êm” đều gợi cảm, tạo nhạc. Bên cạnh một thứ nhạc thơ thấm đẫm đoạn văn là một điệu nhạc tâm hồn cứ khe khẽ hát lên, một chất thơ trở đầy tâm trạng.
Chất thơ mơ mộng còn bao trùm cả cảnh sông bằng những ảnh nai tơ, mỡ màng nhất: “ lá ngô non đầu mùa”, nõn búp, búp cỏ gianh, những con vật hiền lành: con hươu thơ ngộ, đàn cá dâm xanh. Cảnh sắc thơ như từ một thế giới cổ tích nào đấy hiện về, vừa chân thực mà hư ảo, gần gũi mà xa xăm, bảng lảng một lớp sương huyền hồ của “ cỏ gianh đẫm sương đêm”, “ áng cỏ sương” và cả “ tiếng còi sương”. Tưởng như một tâm hồn lần đầu bắt gặp sự xanh non của cuộc sống. Những câu văn tươi xanh như thức dậy phần non tơ nhất của hồn người, thức dậy một ý thơ của Xuân Diệu “ Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non”. Có “t” thể hình dung đây là một buổi sớm mùa xuân tinh khôi, mùa xuân của cuộc sống và mùa xuân của lòng người.
Mỗi câu văn “đẫm sương” ấy là một nét vẽ, tưởng như hòa vào nhau song tách bạch rất rõ rang. Một màn sương cứ rải nhẹ trong tâm trí độc giả, như nhắc nhở bao huyền thoại xa xưa, bao không gian cổ tích diễm ảo. Ta như cùng Nguyễn Tuân ngây ngất đắm say những nét diệu kỳ nhất của tạo hóa. Có một sự sống của mình trong ba thanh trắc “ nhú”, “ mấy”, “ lá”, có một cái gì mềm mại trong “ đầu nhung”. Và ấn tượng nhất là cỏ, ta chỉ nghe “ ngọn cỏ”, “ sóng cỏ” nhưng “ búp cỏ”, “ áng cỏ sương” thì có lẽ chưa bao giờ. Nếu thi hào dân tộc Nguyễn Du tả ngọn cỏ như một minh chứng cho sự đồng điệu đến kỳ lạ của thiên nhiên đối với con người thì Nguyễn Tuân đã đưa ngọn cỏ lên khía cạnh thơ nhất, đẹp nhất. Màu xanh của bờ đồng cỏ mênh mông đã nhuộm non cả đoạn văn – bài thơ của Nguyễn Tuân.
Đoạn văn cuối ấy còn đạt đến chất thơ tuyệt vời bằng nghệ thuật cổ điển lấy động tả tĩnh. Khung cảnh lặng tờ đến nỗi tác giả cảm nhận được cả tiếng cá quẫy. “ Tiếng cá đập nước sông đuồi mất đàn hươu vụt biến”. Phải chăng đó cũng là khoảng lặng trong tâm hồn của Nguyễn Tuân để hứng lấy những âm thanh nên thơ của sự sống, một sự sống trỗi mình trong lá ngô non, búp cỏ non mạnh mẽ trong tiếng đập nước của cá? Đàn hươu hiện ra chạy mất, phải chăng trong đoạn văn thơ mộng của Nguyễn Tuân, mọi vật đều trở nên hiền lành đến mức thơ ngây nhất? Từ cái mênh mang một điệp khúc xanh của ngô non, áng có, nhà văn điểm vào sắc trắng của bụng cá. Nghệ thuật hội họa cổ điển đã được vận dụng, khám phá mọi vẻ đẹp của cuộc sống.
Trong không gian hoang sơ, hiền hòa ấy bỗng tác giả “ thèm được giật mình vì một tiếng còi sương”. Đặt vào hoàn cảnh chưa có chuyến tàu nào đi Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu., câu văn như một tiếng reo náo nức của tác giả trước công cuộc xây dựng miền Bắc (1958 – 1960). Khi ấy, Tố Hữu đã cho ra đời những vần thơ đẹp.
Yêu biết mấy những dòng sông bát ngát
Giữa đôi bờ dào dạt lúa ngô non
Yêu biết mấy những con đường ca hát
Qua công trường mới dựng mái nhà son.
(Mùa thu mới – Tố Hữu)
Tiếng còi sương là ảo, là âm thanh trong tâm tưởng nhưng lại nói lên một ước vọng rất thực tế của nhà văn. Thèm được nghe một tiếng còi xa lửa đã quý, như Chế Lan Viên.
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.
(Tiếng hát con tàu).
Nhưng “ thèm giật mình” thì lại càng quý hơn bởi Nguyễn Tuân khao khát cái cảm giác khi được nghe tiếng còi Tây Bắc mở mang. Ta đã từng trân trọng cái giật mình vì phẩm giá “ thương mình xót xa” của Kiều, cảm thông cái giật mình hoài nhớ của Tú Xương khi “ vẳng nghe tiếng ếch” thì nay ta lại nâng niu thêm một cái giật mình ước tương lai của tác giả sông Đà. Và như thế đoạn văn của sông Đà của Nguyễn Tuân đã là văn chương mới của một thời đại mới. Trước Cách mạng, ông đã từng “xê dịch” để tìm những cảm giác mới lạ, để trốn tránh trách nhiệm thì sau ngày đổi đời của dân tộc, ông lại đi để tìm hình ảnh quê hương và nhận chân trách nhiệm của mình.
Thưởng ngoạn nhưng không quên vì người, vì cuộc sống mới, quả thật văn Nguyễn Tuân đã “hợp lưu” với lòng người đọc dễ dàng nhờ những suy nghĩ như thế. Hòa cùng tiếng hát của con tàu thơ Chế Lan Viên, một tiếng còi sương của Nguyễn Tuân, mái nhà sơn của Tố Hữu, “Ngói mới” của Xuân Diệu… đã góp thành sắc mới của thơ văn phản ánh màu mới của quê hương đất nước. Cuộc sống mới đã ngấm vào cảnh vật, và con hươu thơ như cũng lắng nghe tiếng còi sương. Cảnh vật có màu sắc, âm thanh dù là trong tâm tưởng.
Một tứ thơ xưa đọng lại nơi quãng sông càng làm tăng chất thơ: “Dải sông Đà bọt nước lên đênh. Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.” Nguyễn Tuân đã chọn câu thơ hết sức trữ tình của nhà thơ quê hương sông Đà, sống hết lòng với sông Đà. Câu thơ ấy hòa với những câu văn đẹp như thơ của Nguyễn Tuân đã “đề thơ” vào sóng nước Đà giang như khẳng định sự tồn tại của một sinh thế có hồi, coi sông Đà như một bạn đồng hành? Đưa vào câu thơ của Tản Đà, đoạn văn, bỗng dậy lên hơi thở nồng ấm, quấn quýt của tình người, tình yêu. Tình đã nồng cho nên những câu văn tiếp theo chất chứa cảm xúc “nhớ thương”, “lắng nghe những giọng nói êm êm”.
- Kết bài:
Có một sông Đà gầm thét, chảy trôi miên man giữa trời Tây Bắc vời vợi chất thơ của sông núi, và có một sông Đà trong văn Nguyễn Tuân chảy vào lòng người. Văn chương đã làm cho thiên nhiên đẹp lên bội phần. Con sông Đà sẽ mãi đồng hành cùng với con người cũng như áng văn đẹp của Nguyễn Tuân sẽ luôn là hành trang của mỗi người, của dân tộc đi tới trong cuộc sống hôm nay.
Xem thêm:
- Phân tích tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
- Cảm nhận tùy bút Người lái đò sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân
- Ý nghĩa nhan đề và lời đề từ: “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân
- Chứng minh: “Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân là một áng văn giàu tính thẩm mĩ”