on-tap-luyen-thi-van-ban-chiec-luoc-nga-nguyen-quang-sang

Ôn tập luyện thi văn bản Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)

Chiếc lược ngà
(Nguyễn Quang Sáng)

I. Đọc hiểu chú thích:

1.Tác giả: Nguyễn Quang Sáng

– Nguyễn Quang Sáng, sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới,tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp,ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.

– Từ sau năm 1954, tập kết ra miền Bắc, Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học.

– Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng có nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim và hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình.

– Năm 2000, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

2. Tác phẩm:

Hoàn cảnh sáng tác:

– Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Năm 1966, Nguyễn Quang Sáng từ miền Bắc trở về miền Nam. Khi đi công tác ở vùng tạm chiếm, nhà văn nghe kể về một cô giao liên thông minh, tài trí đã giúp nhiều đoàn cán bộ thực hiện nhiệm vụ an toàn. Lấy cảm hứng từ câu chuyện đó, nhà văn đã sáng tác nên tác phẩm này.

Bố cục: 2 đoạn:

– Phần 1 (Từ đến…đến…”Nó nói trong tiếng nấc, vừa nói vừa từ từ tuột xuống”): Tình cảm cha con của bé Thu và ông Sáu trong ba ngày ông được nghỉ phép.

– Phần 2 (Còn lại): Ở khu căn cứ, ông Sáu làm chiếc lược ngà tặng con.

Chủ đề: Diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

Tóm tắt nội dung văn bản:

Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến.Mãi đến khi con gái lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt làm ba em không giống với người cha trong bức ảnh mà em biết. Em đối xử với ba như người xa lạ. Đến khi Thu nhận ra cha,tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường trở về khu căn cứ. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để tặng con. Trong một trận càn, ông Sáu hi sinh. Trước lúc ra đi mãi mãi, ông đã kịp trao cây lược cho bác Ba, nhờ bạn chuyển cho con gái.

II. Đọc hiểu văn bản:

1. Tình huống truyện gây cấn, đầy kịch tính.

– Tình huống 1: Đó là cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải lên đường.

– Tình huống 2: Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và lòng mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái.

→ Như vậy, nếu ở tình huống thứ nhất bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với cha, thì tình huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc, thắm thiết của ông Sáu với con. Tình huống truyện ở đây mang đầy kịch tính chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ. Đó là những tình huống ngẫu nhiên song lại rất phổ biến, những tình huống đầy éo le mà chúng ta thường gặp trong chiến tranh. Song đặt các nhân vật của mình vào các tình huống ấy, nhà văn muốn khẳng định và ngợi ca:tình cha con thiêng liêng, sâu nặng như một giá trị nhân bản sâu sắc. Tình cảm ấy càng cao đẹp trong hoàn cảnh chiến tranh.

2. Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu.

a. Tâm trạng bé Thu trước khi nhận ra cha:

– Ông Sáu xa nhà đi khắng chiến khi bé Thu chưa tròn 1 tuổi. Lớn lên chỉ biết mặt cha qua tấm ảnh ba mẹ chụp lúc cưới. Nhớ cha, nhiều lần Thu muốn theo mẹ lên cứ nhưng đường xa hiểm trở, lại thêm sợ bọn giặc theo dõi nên mẹ không cho đi.

– Thu thương cha như thế. Ta tưởng chừng như khi được gặp cha, nó sẽ bồi hồi, sung sướng và sà vào vòng tay của ba nó nũng nịu với tình cảm mãnh liệt hơn bao giờ hết. Nhưng không,Thu đã làm cho người đọc phải bất ngờ qua hành động quyết liệt không chịu nhận ông Sáu là ba. “Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn…ngơ ngác, lạ lùng…”. Khi ông Sáu đến gần, giọng lặp bặp run run: “Ba đây con! Ba đây con” thì “Con bé thấy lạ quá, mặt bỗng tái đi,rồi vụt chạy và kêu thét lên: Má! Má !”.

– Suốt ba ngày, ông Sáu chẳng đi đâu xa, muốn ở bên con vỗ về, chăm sóc, bù đắp cho con sự thiếu thốn tình cảm. Song, ông càng xích lại gần thì nó càng tìm cách xa lánh, nhất định không gọi một tiếng “ba”.

+ Khi má dọa đánh bắt kêu “ba” vào ăn cơm, nó nói trổng: “Vô ăn cơm!”; “Cơm chín rồi!”; “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” làm ông Sáu đau lòng đến mức không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười.

+ Đến bữa sau, má giao cho nó nhiệm vụ ở nhà trông nồi cơm,nó không thể tự chắt nước. Tưởng chừng nó phải cầu cứu đến người lớn, phải gọi “ba”. Nhưng quyết không, nó vẫn nói trổng “Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái!”.Bác Ba mở đường cho nó, nhưng nó không để ý, nó lại kêu “Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!”. Ông Sáu cứ vẫn ngồi im. Và nó đã tự mình làm lấy công việc nguy hiểm và quá sức, mà nhất định không chịu nhượng bộ, nhất định không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong chờ.

+ Đỉnh điểm của kịch tính: bé Thu hất cái trứng cá mà ông Sáu đã gắp cho nó, làm cơm văng tung tóe. Ông Sáu không thể chịu đựng nổi nữa trước thái độ lạnh lùng của đứa con gái mà ông hết mực yêu thương, ông đã nổi giận và chẳng kịp suy nghĩ , ông vung tay đánh vào mông nó. Bị ông Sáu đánh,Thu không khóc, gắp lại trứng cá rồi bỏ sang nhà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây lòi tói kêu rổn rảng.

– Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp,nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu.Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho ông Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Bởi nguyên nhân sâu xa của sự chối từ ấy vẫn là tình yêu ba.Tình yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt đối với người ba trong tấm ảnh chụp chung với má – người ba với gương mặt không có vết thẹo dài.

b. Tâm trạng bé Thu khi nhận ra cha:

– Tình yêu ba trong bé Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường trong nỗi đau vì không được con đón nhận.

– Bằng sự quan sát tinh tế, bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu trong “vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Điều đó cho thấy trong tâm hồn đứa trẻ nhạy cảm như Thu đã có ý thức về cảm giác chia li, giây phút này em thèm biểu lộ tình yêu với ba hơn hết, nhưng sự ân hận về những gì mình đã làm ba buồn khiến em không dám bày tỏ. Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em với cái nhìn trìu mến, giọng nói ấm áp “thôi, ba đi nghe con!”.

– Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả ông Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét “Ba…a…a…ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim,của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba.

– Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của Thu: chạy xô tới, nhảy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má,khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi…Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong mỏi mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình”.

– Dường như nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng muốn kéo dài thêm giây phút chia ly của cha con Thu trong cảm nhận của người đọc bằng cách rẽ mạch truyện sang một hướng khác, để bác Ba nghe bà ngoại Thu kể lại cuộc chuyện trò của hai bà cháu đêm qua. Chi tiết này vừa giải thích cho ta hiểu thái độ bướng bỉnh không nhận ba hôm trước của bé Thu và sự thay đổi trong hành động của em hôm nay. Như vậy, trong lòng cô bé, tình yêu dành cho ba luôn là một tình cảm thống nhất, mãnh liệt. Dù cách biểu hiện tình yêu ấy thật khác nhau trong hai hoàn cảnh, nhưng nó vẫn xuất phát trừ một cội nguồn trong trái tim đứa trẻ luôn khao khát tình cha.

– Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.

– Qua những biểu hiện tâm lí và hành đông của bé Thu,người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát,rạch ròi của bé Thu. Sự cứng đầu, tưởng như ương ngạnh ở Thu là biểu hiện của một cá tính mạnh mẽ ( cơ sở để sau này trở thành một cô giao liên mưu trí, dũng cảm). Tuy nhiên, cách thể hiện tình cảm của em vẫn rất hồn nhiên, ngây thơ.

Qua những diễn biến tâm lí của Thu, ta thấy tác giả đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến,trân trọng những tình cảm trẻ thơ.

3. Tình cha con sâu nặng và cao đẹp của ông Sáu:

– Nỗi khao khát gặp lại con sau tám năm xa cách:

+ Khi gặp lại con, không chờ xuồng cập bến, ông đã “nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài rồi dừng lại kêu to: Thu! Con” Ông vừa bước vào vừa khom người đưa tay đón chờ con… Ông không ghìm nổi xúc động….

+ Khi bé Thu sợ hãi bỏ chạy, ông đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt ông sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy.

– Nỗi khổ và niềm vui trong ba ngày về thăm nhà:

+ Trước thái độ lạnh nhạt, ông đã đau khổ, cảm thấy bất lực: Suốt ngày ông chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vỗ về, con bé càng đẩy ra. Ông mong được nghe một tiếng ba của con bé, nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi. Ông đau khổ lắm nhưng chỉ “nhìn con vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”“khổ tâm đến nỗi không khóc được”.

+ Hôm chia tay, nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông muốn ôm con, hôn con nhưng “sợ nó giẫy lên lại bỏ chạy” nên “chỉ đứng nhìn nó” với đôi mắt “trìu mến lẫn buồn rầu”… Cho đến khi nó cất tiếng gọi Ba, ông xúc động đến phát khóc và “không muốn cho con thấy mình khóc, ông Sáu một tay ôm con,một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”. Đây là những giọt nước mắt hạnh phúc của người cha, của người cán bộ kháng chiến.

– Tình yêu con tha thiết của ông còn được thể hiện rất sâu sắc khi ông ở khu căn cứ:

+ Xa con, ông luôn nhớ con trong nỗi day dứt, ân hận ám ảnh vì mình đã lỡ tay đánh con.

+ Lời dặn của con lúc chia tay đã thôi thúc ông làm cho con cây lược.

+ Kiếm được khúc ngà voi, ông hớn hở như đứa trẻ được quà:“từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, ông hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt ông hớn hở như một đứa trẻ được quà”.

+ Rồi ông dồn hết tâm trí và công sức vào việc làm cho con cây lược: “ông cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc”. Trên sống lưng lược, ông đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét chữ:“Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông gửi vào đó tất cả tình yêu và nỗi nhớ.

+ Nhớ con “ông lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”. Ông không muốn con ông đau khi chải lược.Yêu con, ông Sáu yêu đến từng sợi tóc của con. Chiếc lược trở thành vật thiêng liêng đối với ông Sáu, nó làm dịu đi nỗi ân hận, nó chứa đựng bao tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong ngóng của người cha với đứa con xa cách. Cây lược ngà chính là sự kết tinh của tình phụ tử thiêng liêng.

– Ông Sáu đã hi sinh trong trận càn lớn của quân Mĩ – ngụy khi chưa kịp trao cây lược cho con gái. “Trong giờ phút cuối cùng,không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chức. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây phút ấy, cây lược của tình phụ tử đã biến người đồng đội của ông Sáu thành một người cha thứ hai của bé Thu.

Qua nhân vật ông Sáu, người đọc không chỉ cảm nhận tình yêu con tha thiết sâu nặng của người cha chiến sĩ mà còn thấm thía bao đau thương mất mát đối với những em bé, những gia đình. Tình yêu thương con của ông Sáu còn như một lời khẳng định: Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể hủy diệt được sự sống của con người, còn tình cảm của con người – tình phụ tử thiêng liêng thì không bom đạn nào có thể giết chết được.

III. Tổng kết:

1. Nội dung:

-Truyện “Chiếc lược ngà” đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

-Truyện còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thương, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.

2. Nghệ thuật:

– Xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí.

– Xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất,đặt vào nhân vật bác Ba,người bạn chiến đấu của ông Sáu và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện. Với ngôi kể này, người kể chuyện xen vào những lời bình luận, suy nghĩ,bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật, và câu chuyện vẫn mang tính khách quan.

– Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé Thu.

– Ngôn ngữ truyện mang đậm chất địa phương Nam Bộ.


* Câu hỏi ôn tập:

Câu hỏi 1: Chi tiết Chiếc lược ngà được lấy làm nhan đề cho truyện, chi tiết có ý nghĩa quan trọng như thế nào trong tác phẩm?

– Chi tiết chiếc lược ngà được lấy làm tên truyện vì chi tiết đóng một vai trò quan trọng trong tác phẩm. Chiếc lược ngà không chỉ là một lời hứa với con mà quan trọng nó là cầu nối tình cha con trong sự xa cách. Nó mang chứa tình thương yêu sâu nặng của ông Sáu đối với Thu – đứa con bé bỏng, là kỉ vật thiêng liêng duy nhất của tình cha để lại cho con trước lúc hi sinh, là chi tiết nòng cốt bộc lộ chủ đề tác phẩm: tình cha con sâu nặng trong cảnh ngộ chiến tranh.

– Chiếc lược chưa chải được mái tóc của con nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của người cha. Nó là biểu tượng của tình cha con bất tử.

– Nhan đề của tác phẩm thường bộc lộ chủ đề của truyện hoặc ít nhiều nói tới cốt truyện… “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là một nhan đề giản dị và sâu sắc.

– Chiếc lược ngà là kỉ vật thiêng liêng của tình cha con sâu nặng. Với bé Thu, ban đầu là ước mơ của một cô bé 8 tuổi, một ước ao rất giản dị, trong sáng, rất con gái. Có lẽ đó cũng là món quà đầu tiên nhưng cũng lại là món quà cuối cùng người cha tặng cho cô con gái bé bỏng. Nó là tất cả tình yêu thương, kỉ niệm của ba dành cho Thu khi ba hi sinh. Với bé Thu, chiếc lược ấy chính là hình ảnh người cha (trong tâm khảm)

– Với ông Sáu, những ngày xa con ở chiến khu, bao nhiêu nhớ thương, day dứt, ân hận và cải cái niềm khát khao được gặp con, anh dồn cả vào việc làm chiếc lược ngà rất tỉ mẩn, rất cẩn thận (dũa từng chiếc răng lược chau chuốt). Dường như khi dũa từng chiếc răng như vậy, anh cũng bớt áy náy vì đã đánh con, đã không phải với con. Cây lược làm xong, mỗi khi thương nhớ con, anh lại ngắm nhìn cây lược. Phải chăng với người cha, chiếc lược nhỏ xinh xắn ấy cũng là hình ảnh cô con gái bé bỏng. Và trước khi anh Sáu hi sinh, chiếc lược ngà chính là lời trăn trối anh gửi lại, là tất cả tình cảm của người cha dành cho con, cho gia đình.

Câu hỏi 2: Những tình huống nào trong truyện Chiếc lược ngà đã bộc lộ sâu sắc và xúc động tình cha con ông Sáu và bé Thu?

– Truyện xây dựng hai tình huống:

+ Tình huống thứ nhất: Cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu bé Thu không nhận cha. Và cũng thật bất ngờ khi em nhận cha thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi.

+ Tình huống thứ hai: Ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả nỗi nhớ, tình yêu thương đứa con bé bỏng vào việc làm một chiếc lược ngà để tặng cho con, nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con.

– Tình huống thứ nhất là tình huống cơ bản, tạo ra sự bất ngờ, trớ trêu đối với người cha. Qua tình huống ấy thái độ, tình cảm, diễn biến tâm lí của nhân vật bé Thu cũng được bộc lộ một cách quyết liệt và đi đến một kết thúc đầy cảm động.

– Tình huống thứ hai: ông Sáu bị hi sinh trước khi chưa làm trọn lời hứa với con. Tình huống này tuy không gay cấn, dồn bức như ba ngày ông về phép nhưng nó lại được dồn nén tình cha con trong suốt chiều dài chiến dịch. Ông miệt mài dồn tình yêu nhớ của mình vào từng chiếc răng lược, mài giũa sao cho bóng đẹp để chải mái tóc dài cho đứa con yêu. Tình huống thứ hai không chỉ nói lên tình cha con sâu nặng mà còn hàm ẩn lời tố cáo, lên án chiến tranh. Chiến tranh đã gây ra cảnh cha xa con, vợ xa chồng, người còn, kẻ mất, khổ đau, bất hạnh.

Câu hỏi 3: Phát biểu cảm nghĩ của em v ề nhân vật bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lượcngà’’ của Nguyễn Quang Sáng.

  • Mở bài:

– Bằng tài năng miêu tả tâm lý nhân vật rất tinh tế trong đoạn trích: Chiếc lược ngà,Nguyễn Quang Sáng rất thành công trong việc xây dựng nhân vật bé Thu, nhân vật chính của truyện, một cô bé hồn nhiên ngây thơ, có cá tính bướng bỉnh nhưng yêu thương ba sâu sắc.

  • Thân bài:

– Khái quát được cảnh ngộ của gia đình bé Thu: đất nước có chiến tranh, cha đi công tác khi Thu chưa đầy một tuổi, lớn lên em chưa một lần được gặp ba, tình yêu Thudành cho ba chỉ gửi trong tấm ảnh ba chụp chung cùng với má.

– Diễn biến tâm lý của bé Thu trước khi nhận ra anh Sáu là ba:

+ Ngày đầu tiên trong chuyến về phép, trước những hành động vội vã, thái độ xúcđộng, nôn nóng của anh Sáu, Thu ngạc nhiên, lạ lùng, sợ hãi và bỏ chạy… Bởi trong suynghĩ của Thu anh Sáu là người đàn ông lạ, lại có vết thẹo trên mặt không giống với ba – người trong ảnh.

+ Trong hai ngày sau đó, Thu hoàn toàn lạnh lùng trước những cử chỉ đầy yêu thươngcủa ba. Nó nhất định không chịu gọi anh Sáu là ba ( mẹ buộc phải mời ba vào ăn cơm; xử línồi cơm sôi, hay thái độ hất tung cái trứng cá trong bữa cơm… và khi bị đánh lại đã bỏ đimột cách bất cần…)

→  Đó là phản ứng tâm lí hoàn toàn tự nhiên của một đứa trẻ có cá tính mạnh mẽ…Hành động tưởng như vô lễ đáng trách của Thu lại hoàn toàn không đáng trách mà còn đáng thương, bởi em còn quá nhỏ chưa hiểu được những tình thế khắc nghiệt éo le của đời sống. Đằng sau những hành động ấy ẩn chứa cả tình yêu thương ba,sự kiêu hãnh của trẻ thơ về một tình yêu nguyên vẹn trong sáng mà Thu dành cho người ba trong tấm ảnh.

– Diễn biến tâm lý của Thu khi nhận ba:

+ Sự thay đổi thái độ đến khó hiểu của Thu, không ương bướng mà buồn rầu nghĩ ngợi sâu xa, ánh mắt cử chỉ hành động của bé Thu như thể hiện sự ân hận, sự nuối tiếc, muốn nhận ba nhưng e ngại vì đã làm ba giận.

+ Tình yêu thương ba được bộc lộ hối hả mãnh liệt khi anh Sáu nói “Thôi ba đi nghe con”. Tình yêu ấy kết đọng trong âm vang tiếng Ba…, trong những hành động vội vã: Chạy nhanh như con sóc, nhảy thót lên, hôn ba nó cùng khắp,…

→  Đó là cuộc hội ngộ chia tay đầy xúc động, thiêng liêng đã tác động sâu sắc đến bác Ba, mọi người …

+ Sự lý giải nguyên nhân việc hiểu lầm của bé Thu đựợc tác giả thể hiện thật khéo léo đó là do vết thẹo trên mặt người ba; khi hiểu ra sự thực Thu “nằm im lăn lộn thở dài như người lớn”. Vết thẹo không chỉ gây ra nỗi đau về thể xác mà còn hằn nên nỗi đau về tinh thần, gây ra sự xa cách hiểu lầm của bé Thu. Nhưng dù chiến tranh có tàn khốc bao nhiêu thì tình cảm cha con anh Sáu càng trở lên thiêng liêng sâu nặng.

– Khẳng định lại vấn đề:

+ Ngòi bút miêu tả tâm lý, khắc hoạ tính cách nhân vật tinh tế thể hiện được ở bé Thu một cô bé hồn nhiên ngây thơ, mạnh mẽ cứng cỏi yêu ghét rạch ròi. Trong sự đối lập củahành động thái độ trước và sau khi nhân ba lại là sự nhất quán về tính cách về tình yêuthương ba sâu sắc

+ Những năm tháng sống gắn bó với mảnh đất Nam Bộ, trái tim nhạy cảm, nhân hậu, am hiểu tâm lý của trẻ thơ đã giúp tác giả xây dựng thành công nhân vật bé Thu.

– Phát biểu suy nghĩ của cá nhân: về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh… , trân trọng tình cảm gia đình trong cuộc sống hôm nay…

  • Kết bài:

– Khẳng định lại nghệ thuật xây dựng nhân vật và đánh giá chung về nhân vật.

Câu hỏi 4: Phân tích diễn biến tâm lý và tình cảm của bé Thu trong lần đầu gặp cha cuối cùng, khi ông Sáu được về phép. Qua đó hãy nhận xét về tính cách của nhân vật bé Thu và nghệ thuật miêu tả tâm lí của tác giả?

Thái độ và hành dộng của Thu trước khi nhận ra ông Sáu là cha:

–  Bé Thu lại tỏ ra ngờ vực, lảng tránh và ông Sáu càng muôn gần con thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa cách.

– Tâm lí và thái độ ấy của Thu đã được biểu hiện qua hàng loạt các chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động: hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên khi mới gặp ông Sáu, chỉ gọi trống không với ông Sáu mà không chịu gọi là cha: nhất định không chịu nhờ ông giúp chắt nước nồi cơm to đang sôi, hất cái trứng cá mà ông gắp cho; cuối cùng khi bị ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua dây cột xu: kêu rổn rảng thật to.

Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, bé Thu còn bé nhỏ để có thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le của cuộc sống. Phản ứng tâm lý của em là hoàn toàn tự nhiên, chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm của em sâu sắc chân thật, có tình yêu ba tha thiết, mãnh liệt.

Thái độ và hành động của Thu khi nhận ra người cha:

–  Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi “ba” và tiếng kêu như xé, rồi “nó vừa kêu vừa chạy tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chãi lấy cố ba nó”, “nó hôn ba nó cùng khắp.

– Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai là hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”, “hai tay nó siết chặt lấy chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rác câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run”.

Trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu và nồi mong nhớ với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra thật mạnh mẽ và hối hả , cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối hận. Chứng kiến những biểu hiện tìm cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay đang nắm lấy trái tim mình.

Qua biểu hiện tâm lý và hành động của bé Thu, tác giả đã làm nổi rõ một số nét tính cách của nhân vật:

– Thu có tình yêu thương cha sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi, ở Thu còn có nét cá tính là sự cứng cỏi đến mức tưởng như ương ngạnh, nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ hết mực yêu cha.

– Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu,  chứng tỏ tác giả am hiểu tâm lý trẻ em, yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ.

Câu hỏi 4: Phân tích cảm xúc của ông Sáu và mọi người khi bé thu gọi “ba”.

– Ông Sáu phải chịu đựng quá nhiều sự hi sinh, mất mát : chiến tranh khiến cho ông mang một nỗi đau về thể xác và trong những ngày phép ngắn ngủi ở nhà, ông lại phải chịu thêm nỗi đau tinh thần do bé Thu nhất quyết không chịu nhận ông là cha, không gọi một tiếng “ba” mà ông hằng khao khát suốt 8 năm trời.

– Trong buổi sáng trước giờ phút ông Sáu lên đường, thái độ và hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi “ba” và tiếng kêu như tiếng xé, rồi “nó vừa kêu vừa chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, “Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”, “hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi cấu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run”.

– Như vậy, cho đến lúc chia tay vợ con lần thứ hai để bước vào một cuộc chiến đấu mới, ông mới được một khoảnh khắc hạnh phúc quá ngắn ngủi. Trước cử chỉ của bé Thu, “anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con”. Đó là giọt nước mắt sung sướng, hạnh phúc của một người cha cảm nhận được tình ruột thịt từ con mình.

– Thì ra trong đêm về nhà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết thẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu được giải toả và ở Thu nảy sinh một trạng thái như là sự ân hận, hối tiếc. Vì thế trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu và nỗi nhớ mong với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra thật mạnh mẽ và hối hả, cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối hận.

 Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.

Câu hỏi 5: Nhận xét về nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm Chiếc lược ngà.

– Truyện “Chiếc lược ngà” khá tiêu biểu cho những đặc điểm trong nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng. Là một nhà văn Nam Bộ, rất am hiểu và gắn bó với mảnh đất ấy, Nguyễn Quang Sáng, hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong chiến tranh và sau hoà bình.

– Một trong những điểm tạo nên sức hấp dẫn của truyện là tác giả đã xây dựng được một cốt truyện khá chặt chẽ, có những yếu tố bất ngờ tự nhiên nhưng hợp lí : Bé Thu không nhận ra cha khi ông Sáu về phép thăm nhà, rồi lại biểu lộ những tình cảm thật nồng nhiệt, đầy xúc động với người cha trước lúc chia tay. Sự bất ngờ càng gây được hứng thú cho người đọc khi hiểu được tính hợp lí của các sự việc, hành động bề ngoài có vẻ mâu thuẫn. Ở phần sau của truyện, tác giả còn tạo thêm một bất ngờ nữa, đó là cuộc gặp gỡ tình cờ của nhân vật người kể chuyện với Thu, bấy giờ đã thành một cô giao liên dũng cảm, trong một lần ông cùng một đoàn cán bộ đi theo đường dây giao liên, vượt qua một quãng nguy hiểm ở Đồng Tháp Mười.

– Một yếu tố nghệ thuật nữa góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn này là việc lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Người kể chuyện trong vai một người bạn thân thiết của ông Sáu, không chỉ là người chứng kiến khách quan và kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật. Đồng thời qua những ý nghĩ, cảm xúc nhân vật kể chuyện, các chi tiết, sự việc và nhân vật khác trong truyện bộc lộ rõ hơn, ý nghĩa tư tưởng của truyện thêm sức thuyết phục.

+ Truyện được trần thuật theo lời của người bạn ông Sáu, người đã chứng kiến những cảnh ngộ éo le của cha con ông. Cảnh ngộ ấy đã gợi lên bao nhiêu xúc động ở nhân vật kể chuyện : “tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến cho ông “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm lấy trái tim”.

+ Chọn nhân vật kể chuyện như vậy khiến cho câu chuyện trở nên đáng tin cậy hơn. Người kể chuyện lại hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của người đọc, người nghe.

Câu hỏi 6: Suy nghĩ về đời sống và tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn “chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.

* Gợi ý:

1. Chiến tranh là một nhân tố thử thách tình cảm cha con sâu nặng.

– Xa cách gần 7 năm, không nhìn thấy mặt nhau

– Ống Sáu chỉ được ở lại nhà 3 ngày vì chiến tranh. Trong 3 ngày ấy, bé Thu nhất quyết không nhận cha.
– Chỉ đến khi ông Sáu sắp đi, bé Thu mới được sống trong tình cha con thật sự, đó cũng là lần gặp cuối cùng.

Dù chiến tranh khốc liệt nhưng tình cha con vẫn luôn sâu đậm, không làm tình thương yêu ruột thịt ấy phai nhạt.

2. Tình cảm gia đình đã được hi sinh để nhường chỗ cho tình yêu đất nước.

– Sự hi sinh vật chất đã lớn lao rồi, nhưng sự hi sinh về gia đình là vô giá. Đó chính là những tình cảm gia đình : anh Sáu, chị Sáu, bé Thu. Họ đều phải chịu thiệt thòi. Tuổi thơ của bé Thu thiếu đi tình phụ tử là một thiệt thòi lớn do hoàn cảnh đưa lại (Liên hệ với bài Bếp lửa của Bằng Việt. Nếu như tình bà cháu giản dị, gần gũi theo tác giả đến tận nước Nga xa xôi đến suốt cuộc đời thì tâm hồn bé Thu ít nhiều thiếu hụt tình cảm của người cha. Đó cũng là một sự hi sinh.

– Với anh Sáu, chị Sáu cũng như thế, với người mẹ, người vợ, tình cảm gia đình cách chia đằng đẵng, rõ ràng đó là sự hi sinh đặc biệt to lớn, nhất là người phụ nữ. Chị Sáu thiếu thốn tình cảm người chồng, lại phải thay chồng lo việc nhà, nuôi dạy con cái trưởng thành giữa những vất vả nhọc nhằn của cuộc sống thời chiến. (Liên hệ với : Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ … → sức nặng biểu cảm)

– Rõ ràng là chiến tranh kéo dài “lớp cha trước, lớp con sau” đã bắt con người phải hi sinh những tình cảm riêng tư kể cả tình cảm gia đình. Đó là một sự hi sinh thầm lặng mà cuộc kháng chiến của chúng ta đi đến đích.

– Những tình cảm của gia đình, dòng họ thì thường rất bền vững, đó là niềm an ủi động viên lớn, sâu sắc nhất giúp con người vượt qua mọi hoàn cảnh khó khăn.

+ Với chị Sáu, vượt rừng thăm chồng, bao nhiêu trắc trở, một thân một mình. Càng thương nhớ, thuỷ chung với chồng lại càng gắng gỏi hoàn thành công việc gia đình = > Đó cũng là cuộc sống của người phụ nữ ở hậu phương trong thời chiến.

+ Với anh Sáu, chính tình cảm gia đình, tình cha con, vợ chồng đã thực sự là ngọn lửa sưởi ấm giúp mọi người chiến sĩ thêm niềm tin, sức mạnh, là nguồn động lực lớn lao nhất. Phải chăng khi ông Sáu chiến đấu, hi sinh chính là để bảo vệ quê hương, gia đình. Bà mẹ Tà Ôi mơ cho con lớn lên khoẻ mạnh, làm công dân của đất nước tự do… chính vì thế mà mẹ không quản nhọc nhằn… Ông Sáu, ông Ba là những người như vậy.


Phân tích truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.

  • Mở bài:

Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn có mặt sớm nhất ở chiến trường Nam bộ trong những ngày đầu quân Mĩ tăng cường chiến tranh. Ông liên tục bám sát cuộc sống tìm kiếm đề tài để sáng tác cổ vũ cho cuộc chiến đấu của quân và dân miền Nam. Chiếc lược ngà ra đời năm 1966 là một sáng tác quan trọng của nhà văn. Từ câu chuyện cảm động của gia đình ông Sáu, một chiến sĩ cách mạng, tác phẩm ca ngợi tinh thần chiến đấu nah dũng, ngoan cường của nhân dân trong cuộc chiến sống còn với kẻ thù xâm lược.

  • Thân bài:

Câu chuyện xoay quanh hoàn cảnh éo le của gia đình ông Sáu. Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến lúc đứa con gái đầu lòng mới một tuổi. Mãi đến khi nó lên tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà. Con bé không nhận ông Sáu là cha vì vết sẹo trên mặt khiến ông không giống trong bức ảnh chụp cùng với vợ mà bé Thu đã được má cho xem. Đến lúc bé Thu nhận ra cha thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Tình cha con thiêng liêng trỗi dậy mãnh liệt trong em khiến cho mọi người xúc động. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương vào việc làm một chiếc lược bằng ngà để tặng cô con gái bé bỏng. Trong một trận càn của giặc, ông Sáu bị thương nặng. Trước lúc nhắm mắt, ông còn kịp trao cây lược ngà cho người bạn, với ý nhờ mang về quê trao tận tay con gái của mình.

Tình cha con sâu sắc được tác giả thể hiện qua hai tình huống: Tình huống thứ nhất là cuộc gặp gỡ của hai cha con sau tám năm xa cách. Thu đối xử với cha như đối với người xa lạ. Đến lúc em nhận ra và ôm riết lấy cha, thể hiện tình cảm mãnh liệt thì ông Sáu lại phải ra đi làm nhiệm vụ.

Tình huống thứ hai là ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương, mong nhớ con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh và không kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha đối với con.

Sau nhiều năm xa cách, ông Sáu chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người. Đến lúc được về thăm nhà, bao nỗi nhớ thương chất chứa từ lâu nên ông Sáu không kìm được niềm vui khi nhìn thấy bé Thu: Cái tình người cha cứ nôn nao trong người ông. “Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cập lại bến, ông nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Ông bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to: Thu! Con!”

Nhưng thật trớ trêu, đáp lại tình cảm nồng nàn của người cha, bé Thu lại tỏ ra sợ hãi và ngờ vực. Ông Sáu càng muốn gần con để vỗ về yêu thương thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa lánh.

Diễn biến tâm lí và tình cảm của bé Thu trong lần gặp cha đầu tiên được tác giả miêu tả ở hai thời điểm trước và sau khi nhận ra cha.

Tâm lí và thái độ của bé Thu được tác giả thuật lại rất sinh động qua hàng loạt các chi tiết vừa cảm động, vừa buồn cười: Nghe gọi, con bé giật mình, tròn mắt nhìn. Nó ngơ ngác, lạ lùng. Lần đầu tiên nhìn thấy người đàn ông lạ, lại xưng là ba, con bé hết sức ngạc nhiên và sợ hãi, mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má ! Má !”

Khi má bảo gọi cha vào ăn cơm, nó nhất quyết không chịu. Má ép quá, bé Thu chỉ gọi trống không: Vô ăn cơm! Kể cả lúc má đi vắng, nó lâm vào thế bí, muốn nhờ ông Sáu chắt bớt nước nồi cơm đang sôi mà cũng vẫn nói trổng, nhất định không gọi là cha. Ông Sáu lặng im xem nó làm cách nào. Bé Thu lấy vá (muôi) múc nước ra, vừa múc vừa lầu bầu tức giận. Bữa cơm, ông Sáu âu yếm gắp cho con cái trứng cá vàng ươm. Bé Thu bất ngờ lấy đũa hất rơi xuống đất. Ông Sáu không nén được tức giận, đánh con một cái vào mông. Bé “lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm” bỏ ăn, chèo xuồng về nhà bà ngoại bên kia sông. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích kêu rộn ràng để tỏ ý bất bình.

Sự ương ngạnh của bé Thu đúng là tâm lí và tính cách trẻ nhỏ nên không đáng trách. Trong hoàn cảnh chiến tranh, Thu còn quả nhỏ nên không thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le. Phản ứng rất tự nhiên chứng tỏ bé Thu có cả tính mạnh mẽ, tình cảm sâu sắc và chân thật. Bé chỉ yêu khi tin chắc người đó đúng là ba của mình. Trong thái độ cứng đầu của bé ẩn chứa cả sự kiêu hãnh dành cho người cha thân yêu – tức là người đàn ông điển trai trong tấm hình chụp chung với má. Khi đã nhận ra cha, cảm xúc và hành động của bé Thu biểu hiện thật mãnh liệt, khác hẳn lúc trước.

Ba ngày nghỉ phép đã hết. Trước lúc lên đường, ông Sáu đang bịn rịn chia tay thì bất chợt bé Thu cất tiếng gọi ba và tiếng kêu như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa… Hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run.

Điều gì đã dẫn đến sự thay đổi đột ngột trong thái độ cùa bé Thu? Thì ra khi bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết sẹo làm thay đổi vẻ mặt của cha là do giặc Pháp bắn bị thương. Sự nghi ngờ đã được giải toả và bé Thu ân hận, hối tiếc về cung cách cư xử lạnh nhạt của mình đối với cha: Nghe bà kể, nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn.

Vì thế, trong phút chia tay, tình yêu và nỗi mong nhớ đối với người cha xa cách bấy lâu đã bùng ra thật mạnh mẽ khiến bé Thu bối rối, cuống quýt. Chứng kiến cảnh ngộ éo le của cha con ông Sáu, nhiều người không cầm được nước mắt. Lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu những hi sinh mà bạn mình phải chịu đựng khiến cho bác Ba tức người kể chuyện – thật sự xúc động. Diễn biến câu chuyện được trần thuật theo lời bác Ba, người bạn thân thiết của ông Sáu. Bác Ba đã chứng kiến tận mắt cảnh ngộ éo le của cha con ông Sáu và trong lòng bác dâng lên một nỗi xót xa. Bác bỗng thấy khó thở như có bàn tay nắm lấy trái tim.

Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí, ngôn ngữ và hành động của bé Thu, tác giả đã làm nổi rõ một số nét trong tính cách nhân vật. Tình cảm cha con của bé Thu thật sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Cá tính của bé Thu cứng cỏi đến mức ương ngạnh, nhưng thực ra Thu rất hồn nhiên, ngây thơ. Tác giả tỏ ra am hiểu và diễn tả rất sinh động tình cảm trẻ thơ trong sáng.

Tình cảm cha con sâu nặng đã được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến ông Sáu về phép thăm nhà và được miêu tả kĩ lưỡng hơn khi ông Sáu vào căn cứ kháng chiến trong rừng sâu.

Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt, ân hận ám ảnh ông Sáu suốt nhiều ngày là việc ông đã lỡ tay đánh con. Lời dặn tha thiết của đứa con: Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đã thôi thúc ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh dành tặng con gái.

Kiếm được một khúc ngà voi nhỏ, ông Sáu mừng rỡ vô cùng. Ông dành hết tâm trí vào việc làm cây lược: Ông cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc. Mỗi chiếc răng lược chứa đụng không biết bao nhiêu tình yêu thương đối với con. Trên sống lưng lược, còn có khắc một hàng chữ nhỏ mà ông đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.

Chiếc lược ngà đã thành một kỉ vật quý giá, thiêng liêng đối với ông Sáu. Nó làm dịu đi nỗi ân hận, dằn vặt bấy lâu và ấp ủ bao nhiêu tình cảm nhớ thương, mong đợi của người cha đối với đứa con xa cách. Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào tâm trạng của ông. Nhưng rồi một tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu. Ông đã hi sinh khi chưa kịp trao tận tay đứa con gái chiếc lược ngà. Những lời kể lại của bác Ba, người trong cuộc, đã làm nổi bật giá trị thiêng liêng bền vững của tình cha con và tình đồng chí của những chiến sĩ cách mạng.

Truyện Chiếc lược ngà có những đặc điểm khá tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Cốt truyện hấp dẫn, xoay quanh những tình huống bất ngờ nhưng vẫn tự nhiên, hợp lí. Giọng kể mộc mạc, tự nhiên. Ngôn ngữ gần với khẩu ngữ và đậm màu sắc Nam Bộ. Đặc sắc của truyện ngắn này còn thể hiện ở ngòi bút miêu tả tâm lí, đặc biệt là tâm lí trẻ em rất tinh tế và chính xác. Điều đó thể hiện sự nhạy cảm và tấm lòng yêu thương, trân trọng của nhà văn với con người và cuộc đời.

Một điểm đáng chú ý nữa và cũng là điều góp phần tạo nên thành công của truyện ngắn này là việc lựa chọn nhân vật kể chuyện. Người kể chuyện trong vai một người bạn chiến đấu thân thiết của ông Sáu không chỉ chứng kiến và kể lại mà còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật. Qua những quan sát và cảm xúc của người kể, các chi tiết, sự việc và nhân vật trong truyện đều được phản ánh chân thực, khắc hoạ rõ nét, góp phần nêu bật nội dung tư tưởng của tác phẩm.

  • Kết bài:

Truyện Chiếc lược ngà đã diễn tả một cách xúc động tình cảm thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và ngời sáng. Câu chuyện không chỉ nói lên tình cha con thiêng liêng mà còn gợi cho người đọc suy ngẫm và thấm thía những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh mang đến cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Vì vậy mà ý nghĩa tố cáo, lên án chiến tranh xâm lược của truyện khá sâu sắc.


Phân tích nhân vật ông Sáu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.

  • Mở bài:

Hạnh phúc và chiến tranh, chiến tranh và bi kịch mãi là vấn đề muôn thuở không thể hóa giải trong lịch sử và đời sống con người. Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết vào thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc đang diễn ra quyết liệt (1966). Truyện viết về tình cha con trong cảnh ngộ éo le sinh li tử biệt đã để lại trong lòng người đọc nhiều suy ngẫm và xúc động sâu xa.

  • Thân bài:

Ở thời nào cũng vậy, chiến tranh không đem lại lợi ích cho con người mà ngược lại, nó là tội ác, là nguyên nhân gây ra bao mất mát đau thương: cha lìa con, vợ lìa chồng, tuổi trẻ – hạnh phúc, sự bình yên bị phá hoại. Sau chín năm kháng chiến chống Pháp trường kì của dân tộc, tiếng súng tạm ngừng, ông Sáu về thăm gia đình, vợ con ít ngày để rồi lại ra đi, bước tiếp vào cuộc chiến tranh chống Mĩ xâm lược.

Cuộc chiến tranh ác liệt đã để lại di chứng vết thẹo dài trên gương mặt trai trẻ của ông. Nỗi đau không chỉ về thể xác mà còn hằn sâu trong tinh thần, tâm hồn ông. Chính nó là nguyên nhân trong suốt ba ngày ngắn ngủi con không nhận ra cha. Cha càng gần gũi, vồ vập – con càng lạnh nhạt, xa lánh. Cha càng chiều thương – con càng cự nự. Đứa con không thể hiểu nỗi đau do chiến tranh mang lại, không thể hiểu nỗi khao khát trong suốt tám năm xa cách cha mong được gặp con, được hạnh phúc khi nghe con kêu một tiếng ba giản dị mà thiêng liêng nhất cuộc đời. Để rồi mãi đến phút cuối chia tay, ông Sáu mới được hưởng chút hạn phúc mọn mằn trong tình cha con. Tiếng ba buột thốt từ đáy lòng con mà như xé lòng ông, xé lòng mọi người. Cha ôm con, con ôm cha ttrào tuôn nước mắt – khổ đau mà hạnh phúc.

Chẳng ngờ, chút hạnh phúc nhỏ nhoi, ngắn ngủi ấy lại là lần sinh li tửu biệt, vĩnh viễn cha lìa con. Ông Sáu ngã xuống trong một trần càn của giặc, thầm lặng trong một lời trăng trối, không nấm mồ, không bia mộ… Vì những ngày đen tối ấy, sống – chết đều phải bí mật. Sống và hi sinh, khổ đau và lặng lẽ. Song người cha – người chiến sĩ ngoan cường, trung thành với cách mạng, gắn bó với quê hương, đồng chí, đồng đội ấy không bao giờ chết. Vì ông là người rất mực thương con. Ông mang lời hứa với con gái vào chiến trường: “Ba về, ba mua cho con một cây lược nghe ba”. Đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng và cũng là lời hứa đầu tiên và duy nhất của cha dành cho con.

Chiếc lược và nỗi nhớ cứ neo đậu trong ông suốt cuộc hành trình đầy khói lửa chiến tranh. Nó cứ thôi thúc, khôn nguôi trong lòng, làm sao để kiếm được cây lược cho con? Ông ngồi bật dậy, lóe lên trong đầu một sáng kiến: tự tay làm cho con chiếc lược bằng ngà voi, nó sẽ có ý nghĩa hơn nhiều khi tìm mua cho con một cây lược giữa rừng rú chiến khu này. Hơn nữa, ngà voi là thứ quý hiếm, chiếc lược dành cho con phải được làm bằng thứ quý hiếm ấy, nó mới xứng với tình sâu nặng của cha dành cho con.

Khi kiếm được khúc ngà, mặt ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy đấy, khi người lớn hóa thành trẻ con cũng là lúc bộc lộ tinh cảm cao quý nhất của người cha đối với con. Rồi ông miệt mài “ngồi cưa từng chiếc răng lược, tỉ mỉ, thận trọng, khổ công như một người thợ bạc”. Tâm huyết, tình yêu thương được dồn vào từng chiếc răng lược, cứ thế mỗi ngày, cho đến khi chiếc lược được hoàn thành, ông lại gò lưng, tie mẩn khắc từng nét: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.

Cây lược nhỏ xinh chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó như gỡ rối được phần nào nỗi buồn day dứt, ân hận khi ông đã lỡ đánh con lúc nóng giận. Nó như hình bóng của con, như vật kỉ thiêng liêng vô giá, an ủi, động viên, nuôi dưỡng trong ông tình cha con và sức mạnh chiến đấu. Hằng đêm, ông vẫn nhìn ngắn chiếc lược cho nguôi ngoai nỗi nhớ. Ông mài lên tóc mình cho chiếc lược thêm bóng đẹp. Chiếc lược ngà là cầu nối, là biểu tượng bất diệt của tình cha con trong chiến tranh, là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ nhưng đằm thắm, diệu kì.

Thật trớ trêu, chiếc lược ngà luôn được người cha nâng niu, trân trọng ấy, chính ông lại không thể trao tận tay cho con gái. Chiến tranh là thế, còn mất mong manh. Ông đã hi sinh, dù không trăng trối được lời nào nhưng ánh mắt của ông nhìn người bạn chiến đấu và cử chỉ cuối cùng trao cho người bạn chiếc lược ngà như đã chuyển giao sự sống, chuyển giao nghĩa vụ làm cha, hãy gìn giữa, tiếp nối tình cha con ruột thịt. Đúng như ông Ba – người kể chuyện nói: “Chỉ có tình cha con là không thể chết được!”. Nó sẽ sống và tiếp nối trong tình yêu thương của người đồng chí già, nhất định ước nguyện của tình phụ tử sẽ được thực hiện. Ánh mắt và cử chỉ của người sắp ra đi còn thiêng liêng hơn cả bản di chúc bằng lời.

  • Kết bài

Gấp lại trang sách, câu chuyện về Chiếc lược ngà còn âm vang mãi trong lòng người đọc. Nó không chỉ gây xúc động mạnh mẽ về tình phụ tử thắm thiết, sâu nặng mà con gợi cho người đọc suy ngẫm về một quá khứ đau thương của dân tộc. Căm ghét chiến tranh và thấm thía nỗi đau thương, mất mát, éo le do chiến tranh gây ra, biết bao gia đình, biết bao con người phải chịu cảnh đau thương chia lìa như thế. Song đó cũng là niềm tự hào và vinh quang của một dân tộc anh hùng. Nhà văn khẳng định và ca ngợi tình cảm cha con thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong cảnh ngộ khó khăn.

Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang