Phân tích bài thơ “Thuật Hoài” (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão
- Mở bài:
Phạm Ngữ Lão là một trong những dũng tướng kiệt xuất của dân tộc. Ông có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên xâm lược và là người được Trần Hưng Đạo hết mực tin tưởng. “Thuật hoài” (Tỏ lòng) là một trong số ít tác phẩm còn để lại của Phạm Ngũ Lão. Bài thơ là một bức tranh kì vĩ, hoành tráng bởi vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng vệ quốc hiên ngang, lẫm liệt với lí tưởng và nhân cách lớn lao. Bài thơ cũng là vẻ đẹp của thời đại với khí thế hào hùng mang tinh thần quyết chiến và quyết thắng.
- Thân bài:
Phạm Ngũ Lão sinh ra trong thời kì loạn lạc với cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên của đất nước. Tên tuổi của ông gắn liền với câu chuyện về một chàng trai nghèo mãi nghĩ kế giúp vua đánh giặc đến nỗi bi giáo đâm vào đùi. Bên cạnh một nhà quân sự tài giỏi, ông còn là một nhà thơ vĩ đại với hai tác phẩm “Thuật hoài” và “Viếng Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương” còn vang vọng mãi với non sông.
“Thuật hoài” là bản tuyên ngôn về lý tưởng của kẻ làm trai là chiến đấu để bảo vệ non sông đất nước đồng thời thể hiện khí thế, sức mạnh và khát vọng chiến thắng của một thời đại anh hùng. Bài thơ tiêu biểu cho quy luật văn chương nghệ thuật “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh tráng lệ với âm hưởng hào hùng:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”
So sánh câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán với câu thơ dịch, ta thấy hai từ “múa giáo” chưa thể hiện được hết ý nghĩa của hai từ “hoành sóc”. “Hoành sóc” là cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Từ ý nghĩa lẫn âm hưởng, từ “hoành sóc” đều tạo ra cảm giác kì vĩ và lớn lao hơn.
Trong câu thơ đầu, con người xuất hiện trong bối cảnh không gian và thời gian đều rộng lớn. Không gian mở theo chiều rộng của núi sông và mở lên theo chiều cao của sao Ngưu thăm thẳm. Thời gian không phải đo bằng ngày bằng tháng mà đo bằng năm, không phải mới một năm mà đã mấy năm rồi (cáp kỉ thu). Con người cầm cây trường giáo (cũng đo bằng chiều ngang của non sông), lại được đặt trong một không gian, thời gian như thế thì thật là kì vĩ. Con người hiên ngang ấy mang tầm vóc của con người vũ trụ, non sông.
Tư thế ấy mang đậm tính tự hào rằng mình là người con đất Việt và sẵn sàng hy sinh để bảo vệ bờ cõi Việt, bảo vệ nhân dân Việt, bảo vệ non sông gấm vóc ngàn thu này. Hình ảnh lớn lao của người chiến sĩ đã sánh với tầm vóc bao la hùng vĩ của đất trời, lấn át cả khí thế của quân giặc. Đó còn biểu trưng cho lối sống cao đẹp cống hiến hết sức để bảo vệ đất nước một cách kiên trì, nhẫn nại. Dù bao nhiêu năm đi chăng nữa thì lí tưởng bảo vệ, khôi phục non sông vẫn mãi trường tồn.
Nếu câu thơ đầu thể hiện vẻ đẹp của con người với tầm vóc, tư thế, hành động lớn lao, kỳ vĩ mang tầm vóc vũ trụ thì câu thơ thứ hai tô đậm hình ảnh “ba quân” tượng trưng cho sức mạnh của quân đội nhà Trần và sức mạnh dân tộc Đại Việt lúc bấy giờ:
“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
Câu thơ có hai cách hiểu. Thứ nhất, ta có thể hiểu là “ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Nhưng cũng có thể giải thích theo cách khác, với cách hiểu là: Ba quân hùng mạnh khí thế át sao Ngưu. Có thể nói quân đội nhà Trần mạnh cả về trí và lực, không những nó có được đầy đủ binh hùng tướng mạnh mà còn có những vị đại tướng quân trí dũng song toàn (như: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật…). Vì thế thật không quá khoa trương khi nói: cái khí thế ấy đúng là đủ sức làm đổi thay trời đất.
Đội quân “Sát Thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy ào ào ra trận. Không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn cản nổi. “Khí thôn ngưu” nghĩa là khí thế, tráng chí nuốt sao Ngưu, làm át, làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời xuất phát từ câu “khí thôn Ngưu đẩu” hay đó chính là khí thể hùng mạnh có thể nuốt trôi trâu của tam quân thời Trần. Biện pháp nghệ thuật cường điệu hoá sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, có tính sử thi. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hổ…” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo, không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của đội quân “Sát Thát” bất khả chiến bại mà nó còn khơi nguồn cảm hứng thơ ca; tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc:
“Thuyền bè muôn đội,
Tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,
Giáo gươm sáng chói”.
…
(Phú sông Bạch Đằng – Trương Hán Siêu)
Nếu tư thế của tráng sĩ với hình ảnh cây trường giáo như đo bằng chiều ngang của non sông thì tư thế của ba quân lớn mạnh đo bằng chiều dọc gợi không gian mở ra theo chiều rộng của núi sông và mở theo chiều cao đến tận sao Ngưu thăm thẳm. Con người kì vĩ như át cả không gian bao la, kì vĩ. Hình ảnh tráng sĩ lồng vào trong hình ảnh dân tộc thật đẹp có tính chất sử thi, hoành tráng. Đó chính là sức mạnh, âm vang của thời đại, vẻ đẹp của người trai thời Trần, là sản phẩm của “hào khí Đông A”.
Nói cách khác, đó là hình ảnh con người vũ trụ, mang tầm vóc lớn lao. Con người ấy vì ai mà xông pha, quyết chiến? Tất cả xuất phát từ trách nhiệm, ý thức dân tộc và nền thái bình. Vì thế con người vũ trụ gắn với con người trách nhiệm, con người ý thức, bổn phận, con người hành động, đó chính là những biểu hiện của con người cộng đồng, con người xả thân vì đất nước.
Cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ thơ đanh thép hùng hồn. Trong đạo quân mạnh như hổ báo, chí khí lẫm liệt làm át, làm mờ cả sao Ngưu trên bầu trời, thì người chiến sĩ thời Trần đã cầm ngang ngọn giáo để bảo vệ giang sơn. Ngọn giáo ấy mang tầm vóc kì vĩ đo bằng kích thước non sông. Hình tượng người anh hùng “Sát Thát” được thể hiện bằng ngôn ngữ tráng lệ, kì vĩ khác nào người anh hùng thần thoại, người dũng sĩ trong sử thi xa xưa.
Người anh hùng thuở “Bình Nguyên” nung nấu trong lòng, cháy bỏng tâm hồn niềm khao khát: đánh giặc lập công để đền ơn vua báo nợ nước. Mang nặng nợ công danh cũng là khát vọng anh hùng cao đẹp. Tự tin và tự hào khi nhà thơ khẳng định.:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”
Nho giáo nêu lên triết lí kẻ làm trai từ lúc sinh ra đã gánh nợ công danh. Người đàn ông phải hướng đến “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” lấy đó là lí tưởng, là cái đích phải hướng tới. Nói như Nguyễn Công Trứ thì:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.
Thời Trần, cái chí làm trai ấy là “Phá cường địch, báo hoàng ân” của vị anh hùng trẻ tuổi Trần Quốc Toản, là câu nói quả quyết của Thái sư Trần Thủ Độ: “Đầu thần còn chưa rơi xuống xin bệ hạ đừng lo” hay đó là vị Quốc Công tiết chế với “Hịch tướng sĩ” mang đậm “hào khí anh hùng”: “…dẫu cho thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng”. Ấy chính là khát vọng được gánh vác vận mệnh đất nước, dân tộc, lập chiến công hiển hách, là lý tưởng lập công danh sự nghiệp của nam nhi thời loạn lạc.
Đó là cái chí của những bậc nam nhi trong thiên hạ. Chính vì thế, món “nợ công danh” mà nhà thơ nói đến ở đây vừa là khát vọng lập công, lập danh (mong để lại tiếng thơm, sự nghiệp cho đời) vừa có ý “chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước”. Theo quan niệm lí tưởng của trang nam nhi thời phong kiến thì công danh được coi là một món nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh mới hoàn thành nghĩa vụ với đời, với dân, với nước. Ở phần cuối của bài thơ, tác giả vẫn “thẹn” vì mình chưa được như Vũ Hầu Gia Cát Lượng, nghĩa là vẫn muốn lập công lập danh để giúp nước giúp đời.
“Công danh” mà Phạm Ngũ Lão nói đến trong bài thơ là thứ công danh được làm nên bằng máu và tài thao lược, bằng tinh thần quả cảm và chiến công. Đó không phải là thứ “công danh” tầm thường, đậm màu sắc anh hùng cá nhân. Nợ công danh như một gánh nặng mà kẻ làm trai nguyện trả, nguyện đền bằng xương máu và lòng dũng cảm.
Đặt trong thời đại của Phạm Ngũ Lão, chí làm trai này đã cổ vũ con người từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp lớn lao “cùng trời đất muôn đời bất hủ”. Phạm Ngũ Lão cũng từ cái chí, cái nợ nam nhi, nam tử đó mà cùng dân tộc chiến đấu chống xâm lược bền bĩ, ròng rã bao năm. Đặc biệt ở đây cũng từ cái chí, cái nợ đó mà nảy sinh trong tâm trạng một nỗi thẹn. Phạm Ngũ Lão “thẹn” vì chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Thẹn vì trí và lực của mình thì có hạn mà nhiệm vụ khôi phục giang sơn, đất nước còn quá bộn bề. Thẹn bởi vì so với cha ông mình chưa có gì đáng nói. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời, song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì thế “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu” thực chất là một lời thề suốt đời tận tuỵ với chủ tướng Trần Hưng Đạo.
Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão cũng là những day dứt của Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Khuyến sau này. Đó là những nỗi thẹn có giá trị nhân cách – nỗi thẹn của những con người có trách nhiệm với đất nước, non sông.
Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn. Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu vịnh” từng bày tỏ nỗi thẹn khi nghĩ tới Đào Tiềm – một danh sĩ cao khiết đời Tấn. Với Phạm Ngũ Lão, tuy là một nhà thao lược kiệt xuất, có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Mông-Nguyên lần hai, ba nhưng ông vẫn tự thấy hổ thẹn. Ông thẹn vì chưa khôi phục được giang sơn, vì kém cỏi chưa được như Vũ hầu, chưa báo được Hoàng ân. Nỗi thẹn ấy không làm cho con người trở nên nhỏ bé mà trái lại nâng cao phẩm giá con người. Đó là cái thẹn của một con người có lý tưởng, hoài bão vừa lớn lao, vừa khiêm nhường. Nỗi thẹn của một con người luôn dành trọn cái tâm cho đất nước, cho cộng đồng.
Ẩn sau cái thẹn cao cả, khiêm tốn và ấy là cả một nỗi niềm khao khát được cống hiến hơn nữa cho Tổ quốc, cho dân tộc. Ông nguyện học tập binh thư, rèn luyện cung tên chiến mã, sẵn sàng chiến đấu “Khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai,…” để Tổ quốc Đại Việt được trường tồn bền vững: “Non sông nghìn thuở vững âu vàng”.
Người xưa nói “Quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách”. Câu nói ấy quả rất đúng với tinh thần của bài thơ “Tỏ lòng”. Đọc những dòng thơ hào hùng khí thế, ta có thể cảm nhận rât rõ vẻ đẹp sức vóc và ý chí của những trang nam nhi thời đại nhà Trần. Âm hưởng anh hùng ca của thời đại do những con người ấy tạo nên và cũng chính âm hưởng ấy tôn lên vẻ đẹp anh hùng của họ. Họ đã từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, để sẵn sàng chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Tinh thần và ý chí ngoan cường của những con người ấy sẽ vẫn mãi là lí tưởng cho nghị lực và sự phấn đấu của tuổi trẻ hôm nay và mai sau.
- Kết bài:
Thuật hoài là một bài thơ Đường luật ngắn gọn nhưng hàm súc với thủ pháp gợi, thiên về ấn tượng, khái quát kết hợp với bút pháp hoành tráng mang âm hưởng sử thi đã khắc họa vẻ đẹp của người anh hùng hiên ngang, hùng dũng với sức mạnh lý tưởng lớn lao cao cả, tâm hồn sáng ngời nhận cách cùng khí thế hào hùng, quyết chiến quyết thắng của “hào khí Đông A” – hào khí thời Trần. Ngày nay, việc “cứu nước phò nguy” đâu phải là không cần thiết nữa vì vậy, mỗi thanh niên chúng ta cần học tập thật tốt, rèn luyện nhân cách đạo đức, xác định cho mình lí tưởng sống đúng đắn và quan trọng hơn là phải biết ước mơ và hành động vì sự nghiệp đất nước, đưa Việt Nam sánh ngang tầm với các cường quốc khắp năm châu.
Bài tham khảo:
Cảm nhận “hào khí Đông A” qua bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão
- Mở bài:
Phạm Ngũ Lão là một trong bốn dũng tướng vĩ đại nhất của quân đội nhà Trần. Ông là người có công lớn trong cuộc chiến chống quân Mông – Nguyên, giữ vững nền độc lập nước nhà. Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của ông không chỉ bộc lộ khí phách và khát vọng của người anh hùng mà còn thể hiện rõ “hào khí Đông A” – một hào khí rực rỡ của thời đại.
- Thân bài:
Trong bối cảnh đất nước có chiến tranh, bè lũ quân cướp nước bạo tàn tràn sang lãnh thổ ta, dày xéo non sông ta, tàn hại bá tánh ta thì những con người yêu nước phải đứng lên gánh vác trọng trách lịch sử – trọng trách với giang sơn đất nước. Một luồng sinh khí mới trong họ trỗi dậy: lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết đem tài trí ra dẹp bạo trừ tàn, nung nấu lý tưởng anh hùng nhân cách cao cả vì giang sơn. Và còn là một lòng tự hào dân tộc hết sức sâu sắc, mãnh liệt. Tất cả những cung bậc cảm xúc ấy, từ lòng căm ghét đến lòng tự hào đều đã góp phần làm nên ngọn lửa xung thiên – Đông A đại hào khí.
Trước lịch sử non nước có nhiều biến động thế, vận mệnh quốc gia dân tộc đặ lên hàng đầu. Người trang tráng họ Phạm đã giải bày nỗi lòng mình qua bốn câu thơ Đường luật cô đọng, súc tích mà bao la chan chứa trong bài thơ “Thuật hoài”.
Hào khí dân tộc ta có thể thấy được đó là hào khí mạnh mẽ dữ dội về sức mạnh thể chất của người trai tráng và quân đội đương thời:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
Sừng sững trong bức kì họa ấy là hình ảnh người tráng sĩ vệ quốc hiên ngang lẫm liệt. Người tráng sĩ ấy hiện lên với một không gian, thời gian vô cùng đặc biệt. Không gian vô cùng “giang sơn”, cả một giang sơn gấm vóc bao la, rộng lớn, kì vĩ hiện lên. Dường như thu vào bức họa là một khoảng không bất tận, là giữa sông núi hiên ngang vững chãi đời đời. Còn thời gian lại có sự hào hợp với không gian. Đó là thời gian vô tận “kháp kỷ thu” – trải hết mùa thu này sang mùa thu khác, dường như chỉ cảm nhận được độ dài miên man, vô thủy vô chung của thời gian chứ chẳng thể định được là bao lâu. Giữa không gian rộng lớn, thời gian bao la như thế, thì con người hiện hữu sẽ thường trở nên nhỏ bé, rợn ngợp theo đặc trưng của văn học trung đại. Như cánh chim nhỏ bé bị không gian đè nén, vùi dập trong “Chinh phụ ngâm”:
“Khói mù nghi ngút ngàn khơi
Con chim bạt gió lạc loài kêu sương”.
Nhưng ở đây hình ảnh con người lại hiện lên hết sức tráng lệ. Giữa nền bối cảnh không gian và thời gian ấy, ta lại ấn tượng với trung tâm là hình ảnh người tráng sĩ: “hoành sóc”. Với một tư thế cầm ngang ngọn giáo, hiên ngang, oai phong lẫm liệt. Dường như con người trần thế ấy đã được lí tưởng hóa, vĩnh viễn hóa và trung tâm hóa, để rồi hiện lên một vẻ đẹp vững chãi, kiên cường lấn không gian, vượt thời gian để thành sức mạnh vĩnh cửu. Bức tranh đã dựng nên được vẻ đẹp của sức mạnh thể chất hùng võ, anh dũng uy nghi của bậc trai tráng anh hùng. Người nam tử mang tầm vóc kì vĩ, dũng mãnh nên quân đội cũng hiện lên với một sức mạnh như cuồng phong vũ bão, đó chính là cái hùng khí:
“Tam quân tì hổi khí thôn ngưu”
Quân đội nhà Trần vững chắc, ba quân mạnh mẽ, sức vóc cuồng cuộn như hổ báo, nuốt cả loài trâu. Âm hưởng rắn rỏi hùng dũng vang lên đầy khí thế.
Hai câu thơ đầu đã cho ta cảm nhận được phần nào vẻ đẹp thể chất hùng hổ, hiên ngang của người trai tráng cũng như quân đội nhà Trần. Dường như người anh hùng ấy, quân đội ấy đang hiện hữu trước mắt ta. Sinh khí cả một thời đại chợt ùa về, ta như đang sống giữa lòng hào khí mất tử ấy, đang hòa vào bầu không khí nóng bỏng của thời đại, góp thêm lửa tự hào cùng tác giả. Hai câu thơ vang lên cũng làm vang động thanh âm Đông A, làm nên giá trị bất diệt của lịch sử.
Nếu hai câu trên cho ta cảm nhận một cách tinh tế vẻ đẹp sức mạnh thể chất của con người thời Trần thì hai câu sau tác giả cho ta một cách nhìn sâu sắc về vẻ đẹp lý tưởng cao cả và tình cảm chan hòa, lắng đọng trong tim con người:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”.
Đã là nam tử hán đại trượng phu đứng trong trời đất phải lẫy lừng cùng sông núi, cống hiến hết mình cho giang sơn. Đó cũng là quan điểm tích cực của Nho gia. Như cái chí làm trai của Nguyễn Công Trứ:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
Hay cái tử tưởng của cửa Khổng sân Trình của cụ đồ Chiểu:
“Trai thời trung hiếu làm đầu”
Cuộc đời tác giả xem công danh là một món nợ. Món nợ rất nặng cũng như Nguyễn Công Trứ đã từng nói:
“Đạo vi tử vi thần đâu có nhẹ”
Vậy nên suốt đời tác giả cống hiến không ngừng, khi đất nước có xâm lăng, ông đóng góp rất tích cực vào công cuộc định thiên hạ, khi thái hòa về ông cũng tham gia vào dựng xây đất nước, mang thái bình thịnh trị cho lê dân. Công đức cao vời của người khi mất, Vua phải cho nghỉ chầu năm ngày để tỏ lòng thương tiếc. Cuộc đời cốn hiến vậy mà tác giả vẫn thấy chưa là gì, người đã thẹn khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu (Gia Cát tiên sinh) – một tấm gương thiên trung sáng mãi muôn đời, là chuẩn mực chí hướng hướng của biết bao trai tráng trong trời đất. Tuy nhiên cái thẹn đó của tác giả không làm người trở nên nhỏ bé, thấp hèn mà ngược lại còn tôn vinh nên vẻ đẹp một nhân cách cao cả. Không tự mãn với những gì mình đại được, cảm thấy cống hiến mình là quá ít so với cố nhân, không hết được phận sự làm trai. Vì thế hai câu thơ thâm trầm mà sâu sắc vô cùng, hiện lên một lý tưởng sống hết sức cao cả và một trái tim cao đẹp, vĩ đại.
Hai câu thơ là lời tự bạch của tác giả, bao nỗi niềm ưu tư của người dồn nén vào hai câu thơ cuối bài này. Dòng tâm sự ấy tưởng chùng là âm hưởng nhẹ nhàng nhưng thực chất đó là những đợt sóng lòng đêm ngày cuồn cuộn của tác giả và nó đã hòa vào lòng những cơn sóng thời đại, góp phần tô điểm thêm một vẻ đẹp hào nhoáng của hào khí dân tộc.
Bốn câu thơ đã đạt đến trình độ súc tích cao nhưng ý nghĩa lại bao la cao cả vô cùng. Luồng hào khí dân tộc xuyên suốt, quán xuyến và bao trùm lên bốn câu thơ. Đó là lòng tự hào dân tộc, tự hào về sức mạnh con người cả về thể chất lẫn tinh thần, trí tuệ. Hào khí oai thiên ấy được thổi vào từ một tấm lòng yêu nước thầm kín mà sâu sắc. Hào khí ấy không chỉ hào rạng ở triều đại Lý Trần mà còn vang vọng mãi trong lịch sử nước nhà, là âm vang bất diệt của dân tộc. Nghe lời thơ tác giả ta càng hiểu và tự hào hơn về một thời đã qua.
Hào khí thời Trần đã đi qua nhưng nó vang vọng mãi trong lịch sử nước ta. Chúng ta những thế hệ tiếp bước theo sau cũng phải biết gìn giữ lịch sử vẻ vang của dân tộc, biết tự hào về những mốc son chói lọi ấy. Và đặc biệt, biết phấn đấu bồi dưỡng về thể chất, trí tuệ lẫn đạo đức, tâm hồn để trở thành người tài hữu ích, cống hiến, dựng xây cho quê hương đất nước. Thế mới xứng đáng với những truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc, xứng đáng với người kế thừa hào khí Đông A. Hình ảnh Phạm Ngũ Lão là hình ảnh bậc trai tráng lí tưởng cho chúng ta học tập và noi theo.
- Kết bài:
Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão như ngọn lửa thiêng rực cháy lên ngọn lửa hồng bập bùng hào khí thời đại. Tấm lòng tác giả cũng như bao tấm lòng trai tráng sĩ phu yêu nước đương thời. Sự hòa hợp giữa cá nhân và tập thể ấy đã làm nên sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc. Dòng hào khí ấy như cơn lốc dữ dội sẵn sàng cuốn phăng bè lũ cướp nước làm trong sạch non nước, đem thái bình cho thiên hạ. Đó cũng là nỗi khao khát của người chí sĩ họ Phạm – một trái tim sâu sắc, cao cả – một anh hùng dân tộc thời đại…